Thứ Năm, 11 tháng 8, 2011

******************************************************************************
Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế
International Buddhist Information Bureau
Bureau International d'Information Bouddhiste
Cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Ðạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
B.P. 60063 - 94472 Boissy Saint Léger cedex (France) - Tel.: (Paris) (331) 45 98 30 85
Fax : Paris (331) 45 98 32 61 - E-mail : ubcv.ibib@free.fr

Web : http://www.queme.net
*******************************************************************************


THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 11.7.2011
Khuyến từ của Đại lão Hòa thượng Thích Như Đạt, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Tăng sự, Viện Hóa Đạo, về Ý nghĩa An Cư Kiết Hạ


PARIS, ngày 11.7.2011 (PTTPGQT) - Đại lão Hòa thượng Thích Như Đạt, Viện chủ Tu viện Long Quang ở Huế và Tổng vụ trưởng Tổng vụ Tăng sự, Viện Hóa Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN), vừa gửi đến Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế để phổ biến bài viết về Ý Nghĩa An Cư – Kiết Hạ. Xin mời quý độc giả đọc toàn văn bài viết ấy sau đây :

 
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
VIỆN HÓA ĐẠO
TỔNG VỤ TĂNG SỰ
VP : Tu Viện Long Quang - Huyện Hương Trà - Tỉnh Thừa Thiên Huế
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
Phật Lịch 2555                                                                      Số 01-11/TVTS/KH.T
 

Ý NGHĨA AN CƯ - KIẾT HẠ

********

KHUYẾN TỪ

CỦA TỔNG VỤ TRƯỞNG TỔNG VỤ TĂNG SỰ

VIỆN HÓA ĐẠO GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT



Kính gởi :
- Chư Tôn Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni.
- Đồng Bào Phật Tử các giới trong và ngoài nước.

Kính Bạch Chư Tôn Đức,
Kính Thưa Chư Thiện Tri Thức.

Được sự chấp thuận của Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN, tôi xin có đôi lời mạo muội tìm lại dấu vết và ý nghĩa của Mùa An Cư Kiết Hạ, cũng là tìm lại nền tảng dẫn đạo trong việc giáo hoá Tăng, Tín đồ của Đức Từ Phụ, bậc Thầy của Trời, Người và cha lành chung cho cả 4 loài.

Tìm lại gốc tích ấy chính là đóng góp cho sự sống còn của giới xuất gia, những người mang trọng trách “sứ giả Như Lai”.

Kinh luật đã nói nhiều về thời gian thích hợp cho Mùa An Cư Kiết Hạ hằng năm. Mỗi quốc độ lại có một thời tiết khác nhau nên mùa An Cư Kiết Hạ cũng khác nhau. Thời tiết, khí hậu ở Việt Nam có nhiều dị biệt với Ấn Độ, nơi Đức Phật sinh ra, thành đạo và hóa độ chúng sanh, nơi mà mùa An Cư Kiết Hạ được khai mở vào mùa mưa, mùa của muôn loài sinh sôi nẩy nở, để hạn chế Tăng Sĩ đi lại làm tổn thương côn trùng và cây cỏ.

Đức Phật đã xiển dương chân lý tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, mọi loài đều có dòng máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn. Chân lý ấy đã vượt ra ngoài không gian vô cùng và thời gian vô tận. Nên hằng năm, mùa An Cư Kiết hạ được tuỳ duyên khai mở sao cho phù hợp thời tiết, đem đến lợi ích tối thắng cho muôn loài.

Nước Việt Nam chúng ta, mùa hạ tuy nắng gắt nhưng nhiều nơi lại có mưa rào, vạn vật sinh sôi nẩy nở, cho nên mùa An Cư Kiết Hạ thường được bắt đầu từ rằm tháng tư cho tới rằm tháng 7 âm lịch, quy định Chư Tăng ở yên một chỗ để giảm thiểu sự xâm hại côn trùng cây cỏ và cũng để tạo điều kiện ở yên một chỗ để chư Tăng tinh tiến tu học.

Trong Mùa An Cư, Luật không chấp nhận cho các Tỳ Kheo tự do ra ngoài trú xứ, ngoại trừ Phật Sự đặc biệt bất khả khán.

Chư vị Tỳ Kheo đã chấp hành y theo Luật Tứ Phần, Luật Ngũ Phần, phải nghiêm túc thực hiện đúng thời khoá An Cư, nếu quá thời gian quy định Phật Sự mà không trở về đúng thời hạn thì mất hạ. Mục đích của người xuất gia là giác ngộ và giải thoát nên việc An Cư Kiết Hạ hằng năm, chư Tăng chấp hành nghiêm túc, không để cho thế sự mê hoặc, phiền não trói buộc, công nọ việc kia, xem thường giới hạ.

Ngày An Cư Kiết Hạ viên mãn là ngày giải hạ, giải chế, mãn hạ….Luật Tứ Phần đã dạy : khi mãn hạ công việc người Tỳ Kheo phải tuân hành là : Tự Tứ, Giải Chế, Thọ Tuế, và Thọ Y.

Tự Tứ là thành khẩn thỉnh cầu Đại Chúng chỉ bày lỗi lầm để chúng ta sám hối nhằm giúp thân tâm thêm phần thanh tịnh, tăng trưởng đạo tâm.

Kinh dạy rằng, ngày rằm tháng bảy là ngày chư Phật Hoan Hỷ, ngày chư Tăng Tự Tứ, kết thúc kỳ An Cư Kiết Hạ. Chư Tăng đã thành tựu Giới Pháp sau 3 tháng trưởng dưỡng thân tâm để nhận thêm thọ tuế thanh tịnh.

Tự Tứ cũng là ngày Giải Chế, thân tâm hoan hỷ, viên thành Pháp Hạ, một sự thể hiện tiêu biểu cho công hạnh của người xuất gia. Tự Tứ cũng có ý nghĩa Thọ Y, tạo Phước Điền cho thất chúng quy ngưỡng. Nhờ đó, Tăng Ni và Phật Tử sẽ trân trọng cung kính noi theo để tu học, không phải là việc làm để nhận sự truy thăng khen thưởng của thế gian.

Như vậy, tín tâm và sự hành trì trong ba tháng An Cư Kiết Hạ vô cùng hệ trọng. Chư Tỳ Kheo vừa trưởng dưỡng tâm từ bi, không làm tổn hại sinh mạng của chúng sanh qua một mùa sinh sôi nẩy nở, vừa sách tấn nhau tu học để tô bồi pháp thân huệ mạng trên con đường giải thoát, mà Phật Tử tại gia cũng nhờ đó mà kết thiện duyên qua công hạnh hộ giới, góp phần công đức, thâm tín, thân cận Chư Tăng trong mùa An Cư Kiết Hạ. Thật lành mạnh, ấm cúng và thâm tình biết bao !

Ngoài ra, chữ MÙA cũng có nhiều nghĩa. Mùa xuân vạn vật đầm ấm, mùa hè vạn vật sinh sôi, mùa thu vạn vật mát mẻ, mùa đông vạn vật chuyển mình cho một năm mới tươi đẹp. Mùa cũng là niềm an vui và hạnh phúc. Mùa lúa, mùa bắp, mùa đậu đều mang ý nghĩa của ấm no đầy đủ.

Phật Pháp bất ly thế gian pháp. Mùa An Cư Kiết Hạ cũng là mùa mở đầu cho công việc tu học và hoằng dương chánh Pháp. Mùa An Cư Kiết Hạ là thời gian trong năm dành để kết tập năng lượng, trau dồi ý chí, thân tâm cho người xuất gia cũng như Phật tử tại gia,

Kính Bạch Chư Tôn,
Kính Thưa Phật Tử các giới.

Thể tướng vũ trụ cùng thế giới loài người luôn luôn chuyển biến khốc liệt. Nhân loại không thể chìm đắm mãi trong khổ đau mà luôn có những bậc vĩ nhân giải thoát, cứu độ. Chính vì vậy mà Đức Phật xuất hiện, thuyết Pháp, độ sanh. Từ đó mới có chư Tăng, đủ ngôi Tam Bảo. An Cư Kiết Hạ là cơ duyên để chư Tăng trau dồi Pháp thân huệ mạng, hầu mong nối tiếp bản hoài cứu độ chúng sanh của Chư Phật, Chư Bồ Tát.

Chúng ta vì vô minh che lấp, phiền não nặng nề, nghiệp dày, phước mỏng, tâm dễ buông lung theo thế sự. Thế nên An Cư Kiết Hạ là dịp để điều tiết và chế ngự thân tâm. Thứ nữa, người Trưởng Tử Như Lai phát tâm, Ngũ Trược Ác Thế Thệ Tiên Nhập, và vì Chúng Sanh Nan Điều Nan Phục, rất khó cứu độ, nên chư Tăng phải tuân thủ việc An Cư Kiết Hạ để làm hành trang cho hạnh nguyện của mình. Được như vậy, mới có thể hoàn thành được tâm nguyện “ Thuấn Nhã Đa Tánh Khả Tiêu Vong, Thước Ca Ra Tâm Vô Động Chuyễn ”, sắt đá có thể tiêu nhưng tâm nguyện không thay đổi.

Việc chuyển mê khai ngộ, định bệnh cho thuốc, rất khó khăn. Trước tiên, cần an định thân tâm của chính mình, mới đầy đủ sáng suốt để điều phục chúng sanh. Vì vậy mà Đức Thế Tôn đã chế tác thời khoá An Cư Kiết Hạ để tâm nguyện “thượng cầu Phật đạo, hạ hoá chúng sanh” của chư Tăng được thành tựu. Tuy việc giải thoát, độ sanh là khó nhưng không phải là không được, vì Đức Phật dạy rằng : “TA LÀ PHẬT ĐÃ THÀNH, CÁC NGƯƠI LÀ PHẬT SẼ THÀNH” và “ TẤT CẢ CHÚNG SANH ĐỀU CÓ PHẬT TÁNH”. Trong kinh Pháp Hoa, Ngài Thường Bất Kinh Bồ Tát thể hiện sự cung kính của mình khi chấp tay vái lạy tất cả các Vị Phật Đương Lai.

Tóm lại, 3 tháng An Cư Kiết Hạ không chỉ điều phục thân tâm mà ngay cả tu sửa Ngôi Tam Bảo, ngói gạch rệu rã, nền móng lung lay, nguy hiểm, giường nệm, y phục, đau ốm, thuốc thang, cơm cháo… cũng lấy An Cư Kiết Hạ điều phục chướng duyên.

Và còn nhiều mặt tương quan tương duyên cho Đạo Pháp, cho Quê Hương, cho Đất Nước cần nghiêm chỉnh suy nghiệm trong Mùa An Cua Kiết Hạ, để trên thì đền đáp Tứ Trọng Ân, dưới thì hạ tế Tam Đồ Khổ như Thông Điệp Đầu năm Tân Mão cũng như Thông Điệp Phật Đản Phật Lịch 2555 của Đức Đại Lão Hòa Thượng Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống Kiêm Viện Trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN đã ban hành, mà tôn chỉ không ngoài đường hướng của GHPGVNTN :

ĐẠO PHÁP KHÔNG THỂ NỞ HOA NƠI GIANG SƠN NÔ LỆ
DÂN TỘC KHÔNG THỂ HẠNH PHÚC NƠI ÁP BỨC ĐÓI NGHÈO.
NAM MÔ ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT MA HA TÁT

Phật Lịch 2555 Tu Viện Long Quang
ngày 25 tháng 6 năm 2011
TỔNG VỤ TRƯỞNG TỔNG VỤ TĂNG SỰVIỆN HÓA ĐẠO, GHPGVNTN
SA MÔN THÍCH NHƯ ĐẠT
Cẩn Bạch

******************************************************************************
Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế
International Buddhist Information Bureau
Bureau International d'Information Bouddhiste
Cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Ðạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
B.P. 60063 - 94472 Boissy Saint Léger cedex (France) - Tel.: (Paris) (331) 45 98 30 85
Fax : Paris (331) 45 98 32 61 - E-mail : ubcv.ibib@free.fr

Web : http://www.queme.net
*******************************************************************************


THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 22.7.2011
Thông bạch Vu Lan báo ân Cha mẹ và cứu khổ quần sinh của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ


PARIS, ngày 22.7.2011 (PTTPGQT) - Phòng Thông tin Phật gíáo Quốc tế vừa nhận được Thông bạch Vu Lan của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, Xử lý Thường Vụ Viện Tăng Thống kiêm Viện trưởng Viện Hóa Đạo, để phổ biến.

Xin đăng tải nguyên văn Thông bạch ấy như sau :


GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
VIỆN HÓA ĐẠOThanh Minh Thiền Viện, 90 Trần Huy Liệu, P. 15, Q. Phú Nhuận, TP. Sài gòn
-------------------------------------------------------------------------------------------------

Phật lịch 2555                                                           Số : 03/VHĐ/TB/XLTV


THÔNG BCH VU LAN



Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Kính bạch chư Tôn đức Giáo phẩm Tăng Ni,
Kính thưa quý Thiện tín Cư sỹ Phật tử,


Đại lễ Vu Lan vừa là dịp nhắc nhớ chúng ta tinh thần báo ân nhưng đồng thời cũng là để nhấn mạnh đến hạnh nguyện cứu khổ. Với Phật giáo, đối tượng cứu độ không giới hạn trong phạm vi thân thuộc mà mở rộng đến vô lượng vô số chúng sanh không phân biệt thân thù.

Chúng ta được sinh ra trong cảnh giới nào đều do những nghiệp duyên của chính chúng ta tạo tác. Bởi thế, những thực tại khổ đau chỉ được chuyển hóa bằng công năng hành trì và thực nghiệm chánh pháp. Vì vậy, “Khi làm việc gì hãy nghĩ đến hậu quả của nó”. Chuyện Mục Liên Thanh Đề là một bài Pháp rất cần suy gẩm.

Thế giới đang đối diện với nhiều nan đề, từ cuộc khủng hoảng kinh kế, chính trị, giáo dục, môi sinh...đến con người. Xã hội loài người đang phải đương đầu với nạn nghi ngờ, căn thẳng, sợ hãi, thù hận... Hận thù đã giết chết tình người và biến cuộc sống trở thành vô nghĩa. Riêng tại Việt Nam, đất nước đang đối diện với nhiều thảm họa, nguy cấp nhất là họa ngoại xâm. Tình hình biển Đông mỗi ngày một sôi động vì đó là địa bàn kinh tế, chiến lược trọng yếu của các nước siêu cường.

Thực tế lịch sử cho thấy, chiến tranh là hủy diệt và hậu quả là đau thương. Vì thế, các quốc gia liên hệ cần ý thức rõ hiểm họa to lớn của chiến tranh, phải thấy cái giá mà các nước lâm chiến phải trả là rất đắt. Không những tiêu hao về mặt vật chất, tiền bạc, mà quan trọng hơn, sự thiệt hại về nhân mạng là một tổn thất không gì bù đắp được. Dầu hỏa, khí đốt tuy có giá trị, nhưng không giá trị bằng mạng sống con người.

Muốn thật sự giải quyết tận gốc mọi vấn nạn, chúng ta cần ý thức rằng, ngoài việc tuân thủ các Công ước Quốc tế, điều quan trọng là, mỗi cá thể, mỗi quốc gia cần nhận thức rõ mối hiểm họa xuất phát từ những tham vọng quyền lực. Tham ái là nguyên nhân của mọi khổ hoạn. Ở đâu có tham vọng, hận thù, ở đó có bất ổn, khổ đau. Vũ khí có thể giết người nhưng tăng thêm thù hận, chỉ có tình thương mới xoá bỏ được hận thù. Hãy đặt phúc lợi lâu dài của nhân loại lên trên mọi tham vọng cá nhân và phe nhóm. Không có nền hòa bình nào không phải trả một giá tương ứng, tuy nhiên, đó là sự hy sinh cao quí, rất cần thiết, cho sự an lạc và hạnh phúc lâu dài của nhân loại.

Đức Phật đã từng sống trong rừng núi nhiều năm, suốt hơn bốn thập niên rày đây mai đó với hai bàn tay trắng nhưng Ngài đã sống rất an lạc, rất hòa bình, lý do vì đức Phật đã trải Từ tâm đến tất cả muôn loài.

Nhân mùa Vu Lan Báo Hiếu, thay mặt Hội Đồng Lưỡng Viện, tôi khuyến thỉnh toàn thể Tăng, Tín đồ trong và ngoài nước hãy dụng công hành trì chánh pháp, nỗ lực thắp sáng trí giác, phát huy hơn nữa bản thệ đại Từ bi của Bồ tát Địa Tạng để đền đáp bốn ân và cứu lấy nỗi khổ của muôn loài.

Tôi chân thành kêu gọi những ai tự nhận lãnh đạo đất nước hãy đặt quyền lợi quốc dân lên trên quyền lợi của Đảng, chỉ có sức mạnh tổng họp của đại khối dân tộc mới đủ sức gìn giữ giang sơn bờ cõi và chỉ có tình nghĩa đồng bào chứ không là đồng chí mới có khả năng hàn gắn vết thương vốn phát sinh từ phạm trù ý hệ cục bộ.

Từ nơi đang bị quản thúc, với tất cả năng lực thanh tịnh, xin họp nhất với năng lực thanh tịnh của thập phương Tăng, nhất tâm cầu nguyện thất tổ cửu huyền cùng quá khứ đa sinh phụ mẫu, liệt thánh tử đạo, chư chiến sỹ vị quốc vong thân, đồng bào nạn nhân chiến cuộc, chư oan hồn uổng tử nương nhờ pháp lực siêu sinh nơi miền Phật quốc.

Trong sự kỳ vọng thiết tha, xin nhất tâm cầu nguyện thế giới chung sống hòa bình, dân tộc sớm hưởng tự do, nhân quyền và dân chủ.

Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Tôn Giả tác đại chứng minh.

Thanh Minh Thiền Viện, ngày 20 tháng 7 năm 2011
Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống
kiêm Viện Trưởng Viện Hóa Đạo
GHPGVNTN
(ấn ký)Sa môn Thích Quảng Độ



Que Me
B.P. 60063 - 94472 Boissy Saint Léger cedex (France)
Tel.: (Paris) (331) 45 98 30 85 - Fax : Paris (331) 45 98 32 61
E-mail :
queme.democracy@gmail.com - Web : http://www.queme.net

******************************************************************************************
 
Chuyen Trang Tuan cua Tran Nhan
 
Diên Hồng trên đường phố


Mấy chục năm qua, có những chính trị gia xa-lông ở hải ngoại kêu gọi dân chúng trong nước xuống đường biểu tình chống Đảng và Nhà nước cộng sản. Nhưng chẳng thấy ai hưởng ứng. Vì sao là chuyện dễ hiểu. Hệ thống công an dày đặc mà công an khu vựchộ khẩu là hai mạng lưới trói buộc con người tự do và bao tử họ. Mặt khác, chán chường với đảng ác ôn, độc tài, chuyên lừa bịp dân từ sáu mươi sáu năm qua, người dân không thể tin càn vào lời kêu gọi của những chính trị gia xa lông hữu danh vô thực.

Thế nhưng có những cuộc xuống đường thực sự xẩy ra mấy chục năm qua do phản ứng chống bất công của người dân trong nước :

- Cuối thập niên 80, hàng trăm Dân oan kéo nhau từ đồng bằng sông Cửu Long về Saigon, rồi ra Hà Nội, biểu tình chống cán bộ cộng sản cướp bóc tài sản, đất đai của dân. Những người dân mà đa số trước kia từng nuôi dưỡng cán bộ Việt Cộng nằm vùng. Thật trớ trêu.

- Tháng 5 năm 1993, bốn mươi nghìn Phật tử Huế xuống đường đòi hỏi nhân quyền và tự do tôn giáo ;

- Năm 1997, cán bộ đảng và nông dân 128 xã ở Thái Bình, chiếc nôi của cách mạng vô sản, nổi lên đập phá tượng ông Hồ và các trụ sở Ùy ban Nhân dân, chống sự lạm quyền, tham ô, _phi dân chủ của cường hào ác bá đỏ ;

- Mấy năm vừa qua, hàng nghìn lượt người Công giáo biểu tình ở Hà Nội, Thái Hà, v.v… đòi lại đất đai bị Cộng sản chiếm đoạt.

Đương nhiên bốn sự kiện vừa kể không là sự hưởng ứng gọi kêu vô vọng của giới chính trị gia xa lông hải ngoại.

Nay đến lượt học sinh, sinh viên, nhân sĩ, trí thức lần đầu tiên trong tám tuần lễ qua xuống đường biểu tình vì yêu nước thương nòi, chứ không vì yêu Xã hội chủ nghĩa. Rõ ràng là nhà nước xã hội chủ nghĩa đã bội phản dân tộc, nhượng đất, nhượng biển cho Trung Cộng. Đến khi tàu hải giám Trung cộng xâm nhập lãnh hải Việt Nam tấn công tàu Việt Nam, và những lần tấn công bắn giết ngư dân Việt, nhà nước Xã hội chủ nghĩa chẳng phản đối mạnh mẽ như một nhà nước có chủ quyền. Kiểu cách gọi là “phản đối” của tư duy cộng sản Hà Nội là cử Hồ Xuân Sơn sang Bắc Kinh “thương thảo”. Sơn là người trước đây dự phần trong việc dâng hiến thác Bản Giốc, bãi Tục Lãm, Ải Nam quan, v.v… cho Trung Cộng.

Cho nên phải xuống đường phản đối hai mặt, mặt ngoại Bắc kinh xâm lăng, và mặt nội lãnh đạo Hà Nội ươn hèn bán nước.

Lần đầu tiên giới trẻ xuất hiện trên đường phố với sự hỗ trợ của nhân sĩ, trí thức vốn là đảng viên theo đảng mấy chục năm qua. Chuyện mới thấy, nhưng cũng là chuyện cũ tuyệt vời. Cũ vì dòng máu Cha ông chống Tống, bình Nguyên, kháng Minh, trừ Thanh đang chảy lại trong huyết quản người dân, vốn bị độc tố xích đảng hoành hành hơn nửa thế kỷ qua.

Người ta không ngớt gào kêu một hội nghị Diên Hồng cho thế kỷ XX rồi thế kỷ XXI. Những gào kêu vô vọng vì chẳng ai để ý thời nay không còn là thời Trần, chẳng ai muốn tái dựng thời Trần huy hoàng vào thế kỷ XXI.

Bỗng chốc Giới Trẻ Việt Nam cùng đoàn lớp nhân sĩ, trí thức, vô hình trung, đang mở ra một Diên Hồng mới của thế kỷ XXI : DIÊN HỒNG TRÊN ĐƯỜNG PHỐ.

Nói là Diên Hồng vì lòng yêu nước thương nòi bộc lộ tới đỉnh cao nơi tâm thức chống ngoại xâm :

Sáu mươi sáu năm qua chưa một lần nước Việt của triều Hồ thấy một cô gái mặc áo dài trắng bước xuống đường biểu tình với dòng chữ “Hoàng Sa Trường Sa của Việt Nam”, với người phụ nữ lưng trần xâm trên da bốn chữ “Thù nhà – Nợ nước” ;

Sáu mươi sáu năm qua chưa một lần nước Việt của triều Hồ nghe tiếng hô “Đả đảo Trung quốc xâm lược !” ;

Sáu mươi sáu năm qua chưa một lần nước Việt của triều Hồ thấy được tấm biểu ngữ “Đời đời tưởng nhớ những liệt sĩ Việt Nam : 74 binh sĩ hy sinh tại Hoàng Sa năm 1974 và 64 binh sĩ hy sinh tại Trường Sa năm 1988”.

Những tấm giấy đưa cao như cánh bướm, ghi tên từng người, từng người… Ngụy Văn Thà rồi tên 74 binh sĩ Việt Nam Cộng hòa hy sinh ngày 19-1-1974 tại Hoàng Sa, và tên 64 binh sĩ miền Bắc hy sinh tại Trường Sa năm 1988.

Trong Tuyên cáo Giải trừ Quốc nạn và Pháp nạn của Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang viết ngày 20.11.1993 có đoạn yêu cầu Đảng và nhà nước Cộng sản “Sám hối với người chết trong tinh thần nguyện hứa lo cho người sống được sống người”, tức Linh quyền cho người chết và Nhân quyền cho người sống. Người chết mà Đức cố Tăng thống nhắc tới là binh sĩ cả hai miền Nam Bắc.

Đảng và nhà nước cộng sản chẳng bao giờ thực hiện lời kêu gọi ấy, thì nay, Giới Trẻ Việt Nam đang thực hiện trong các cuộc biểu tình tám tuần lễ qua.

Những ai còn ưu tư cho nòi giống, không gì cấp thiết và cụ thể hơn là tiếp tay với Giới Trẻ yêu nước thương nòi trong nước : XUỐNG ĐƯỜNG như sự thể hiện DIÊN HỒNG TRÊN ĐƯỜNG PHỒ.

Trần Nhân
29.7.2011
******************************************************************************
Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế
International Buddhist Information Bureau
Bureau International d'Information Bouddhiste
Cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Ðạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
B.P. 60063 - 94472 Boissy Saint Léger cedex (France) - Tel.: (Paris) (331) 45 98 30 85
Fax : Paris (331) 45 98 32 61 - E-mail : pttpgqt@gmail.com

Web : http://www.queme.net
*******************************************************************************


THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 28.7.2011
Thượng tọa Thích Viên Định báo động :
“Tổ quốc bị Trung Cộng xâm lăng”


PARIS, ngày 28.7.2011 (PTTPGQT) - Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế vừa nhận được bài viết mới của Thượng tọa Thích Viên Định “Tổ quốc đang bị xâm lăng : Thế lực thù địch của Dân tộc đã công khai lộ diện”.

Thượng tọa Thích Viên Định là Phó Viện trưởng kiêm Tổng thư ký Viện Hóa Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Xin mời bạn đọc theo dõi toàn văn bài viết ấy sau đây :


Tổ Quốc đang bị xâm lăng.
Thế lực thù địch của Dân tộc đã công khai lộ diện.

Thích Viên Định



Hơn 1000 năm Bắc thuộc và rất nhiều lần đem quân đánh phá biên giới nước ta, nay đã sang thế kỷ 21, cuộc xâm lăng vẫn còn tiếp diễn, rõ ràng thế lực thù địch Bành trướng Bá quyền Đại Hán Bắc kinh là kẻ thù truyền kiếp, nguy hiểm và thường xuyên nhất của dân tộc Việt Nam.

Ngày nay, thế lực thù địch Đại Hán lại ẩn nấp dưới chiêu bài Xã hội chủ nghĩa theo chủ thuyết Mác-Lênin, vô gia đình, vô tổ quốc để dễ bề thôn tính Việt Nam. Mặc dù đây là chủ thuyết sai lầm, phi nhân, gây tội ác với nhân loại, bị thế giới lên án, đã bị đào thải ngay tại Liên sô và các nước Cộng sản Đông Âu. Nhưng Trung Cộng vẫn cố giữ mô hình Xã hội chủ nghĩa để lợi dụng, che giấu mưu đồ xâm chiếm Việt Nam theo đường lối thực dân kiểu mới. Đảng Cộng sản Việt Nam thì cũng cố ôm giữ thể chế Xã hội chủ nghĩa, để duy trì đặc quyền đặc lợi cho Đảng chứ không cho dân.

Với chiêu bài Xã hội Chủ nghĩa, chủ trương thế giới đại đồng, xoá bỏ biên giới quốc gia, triệt tiêu cội nguồn dân tộc, Trung Cộng đã xâm chiếm các đảo Hoàng sa, Trường sa, Ải Nam quan, Thác Bản Giốc, Bãi Tục Lãm, lập Huyện Tam sa, lấn chiếm Vịnh Bắc Việt, vẽ đường Lưỡi Bò bao trùm gần hết bờ biển Việt Nam.

Để xâm chiếm hải phận Việt Nam, năm 2005 Trung cộng đã bắn chết 9 ngư dân Việt Nam ở tỉnh Thanh Hoá đang đánh cá trong ngư trường thuộc lãnh hải Việt Nam. Từ đó đến nay, rất nhiều lần lính Trung Cộng đã cướp bóc, đánh đập, bắt giam, đòi tiền chuộc các ngư dân thuộc các Tỉnh duyên hải Việt Nam từ Thanh Hoá đến Cà Mau. Tính từ năm 2005 đến nay, chỉ riêng tại Quảng Ngãi đã có 33 tàu cá và gần 400 ngư dân Việt Nam bị phía Trung Quốc bắt giữ. Trung Cộng lại tuỳ tiện cấm ngư dân Việt Nam đánh cá mỗi năm 3 tháng, từ 15.5 đến 15.8. Ngày 26.5.2011 vừa qua, 3 tàu Hải giám của Trung Cộng còn vào sâu trong hải phận Việt Nam cắt phá cáp các tàu thăm dò địa chất Bình Minh 2 và Viking 2 của Việt Nam, Ngày 05.7. và ngày 13.7.2011, Trung Cộng dùng thuyền có vũ trang đánh đuổi, cướp tài sản, giam giữ các ngư dân Quảng Ngãi, Phú Yên…đến nay vẫn chưa biết số phận an nguy thế nào.

Trách nhiệm của một Chính quyền là phải bảo vệ đất nước, bảo vệ nhân dân. Nhưng không hiểu tại sao Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam, với đầy đủ quân đội, công an, lại im lặng, không tố cáo, không đánh trả, không bảo vệ tánh mạng và tài sản cho người dân bị hại, lại làm ngơ để cho kẻ cướp nước tự do tung hoành, mặc cho ngư dân bị đánh, bị giết, bị bắt người, bị cướp của, bị đòi tiền chuộc, phải đau đớn, âm thầm tự lo liệu ?

Đã không chống đối kẻ thù, bảo vệ người dân, Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam lại còn bắt tay giao hảo, kết tình hữu nghị với kẻ xâm lăng theo phương châm “16 chữ vàng và 4 tốt” ; cho Trung Cộng vào Tây nguyên, lấy cớ, khai thác Bau-xít, làm ô nhiễm môi trường, tiêu diệt văn hoá, phá hoại kinh tế, nhất là gây nguy cơ về an ninh quốc phòng rất lớn ; cho Trung Cộng thuê rừng dài hạn, 50 năm, ở 10 tỉnh biên giới và sâu trong nội địa ; tạo thuận lợi cho Trung Cộng đấu thầu các công trình trọng điểm trên toàn quốc mà tất cả công nhân đều là người Trung quốc ; biên giới phía Bắc lại bỏ ngõ, không kiểm soát việc nhập cảnh, để cho người Trung Quốc tự do xâm nhập.

Trong lúc tổ quốc bị xâm lăng, bị mất đất, mất biển đảo, bị giết người, bị cướp của, Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam đã không dám đánh trả cũng không dám kêu cứu, thì Trung Cộng lại ngang ngược tuyên truyền, vu cáo rằng : “Việt Nam chiếm nhiều đảo nhất, tỏ ra hung hăng nhất, gây ra nhiều ảnh hưởng xấu nhất trong vùng biển Trung Hoa thuộc chủ quyền không thể bàn cãi của Trung Quốc”, “bọnViệt Nam giết ngư dân Trung Quốc”, “cần dạy cho Việt Nam vô ân bạc nghĩa một bài học lớn hơn trước đây”.

Báo chí chính thức của Trung Cộng không ngớt kêu gọi sử dụng vũ lực với Việt Nam. Ngày 25/6 Bành Quang Khiêm, tướng Trung Cộng, cho rằng tình hình Biển Đông đột nhiên căng thẳng là do Việt Nam và Phi Luật Tân “khiêu khích” và đe dọa : “Trung Quốc từng dạy Việt Nam một bài học, nếu Việt Nam không chân thành sẽ còn nhận bài học lớn hơn.” và cao giọng “mắng mỏ” Việt Nam, đòi “tát cho Việt Nam vỡ mặt”, truyền hình Trung Quốc còn chiếu cả kế hoạch tấn công Việt Nam.

Quá phẩn uất trước việc Trung Cộng xâm lăng tổ quốc, bắn giết ngư dân Việt Nam, không thể câm lặng mãi được, ngày 5.6.2011 và tám ngày chủ nhật tiếp theo, hàng ngàn Sinh viên học sinh, các nhân sĩ, trí thức, lãnh đạo tôn giáo cùng nhân dân Việt Nam đã đồng lòng phát khởi truyền thống yêu nước, tổ chức biểu tình chống Trung Cộng xâm lăng, quyết tâm bảo vệ tổ quốc.

Nhưng đau đớn thay ! Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam chẳng những đã không khuyến khích lòng yêu nước của nhân dân, không ủng hộ cuộc biểu tình chống ngoại xâm, lại còn nói rằng : “Việc nước đã có nhà nước lo, nhân dân không được biểu tình chống đối Trung Quốc làm ảnh hưởng đến ngoại giao, biểu tình là vi phạm pháp luật !” và ra lệnh cho Công an, mật vụ, xã hội đen thẳng tay đàn áp, bắt bớ, đánh đập tàn bạo những người biểu tình chống Trung Cộng xâm lược.

Nhất là sau khi ông Hồ Xuân Sơn, Thứ Trưởng Ngoại giao, đặc phái viên của lãnh đạo cấp cao Việt Nam đi gặp Ủy viên Quốc vụ Trung Quốc Đới Bỉnh Quốc vào ngày 25.6.2011, không rõ hai bên cam kết những gì nhưng bản tin trên Tân Hoa Xã ngày 28 tháng 6 loan rằng :

“Cả hai nước đều phản đối những thế lực bên ngoài can dự vào tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam.”

“Trung Quốc đã nhiều lần tuyên bố về chủ quyền không thể tranh cãi của mình tại các hòn đảo trên Biển Hoa Nam và những vùng biển xung quanh các hòn đảo này.”

Cũng không quên “nhắc nhở” Việt Nam về bức thư ngoại giao của Thủ Tướng Việt Nam Phạm Văn Ðồng năm 1958 gửi tới Thủ Tướng Trung Quốc lúc bấy giờ là Chu Ân Lai, đã công nhận chủ quyền này.”

Sau lần gặp gỡ, thảo luận này, Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam ra lệnh cho Công an đàn áp người biểu tình càng khốc liệt hơn. Bức hình Đại uý Công an tên Minh dùng giày đạp lên mặt người thanh niên Nguyến Trí Đức trong cuộc biểu tình tại Hà Nội ngày 17.7.2011, làm cho ai thấy cũng thảng thốt, bàng hoàng, không thể tin nỗi trong lịch sử 4 ngàn năm văn hiến nước nhà, nay lại có một chế độ hèn với giặc, nhưng ác với dân, dám coi thường nhân phẩm con người, dẫm đạp lên mặt nhân dân, chà đạp lòng yêu nước của nhân dân như vậy.

Cấm người dân biểu tình là vi phạm Hiến Pháp Việt Nam, vi phạm Công Ước Quốc Tế về Các Quyền Chính Trị và Dân Sự mà Việt Nam đã ký kết năm 1982. Không có điều luật nào cấm người dân tổ chức biểu tình. Nhất là biểu tình chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc, sao lại cho là “vi phạm luật pháp ?”.

Cấm người dân biểu tình chống ngoại xâm không những đã vi phạm Hiến Pháp, vi phạm Công Ước Quốc Tế mà còn phạm tội rất nặng, đó là tội phản quốc ! Nếu có chế độ nào đặt ra điều luật cấm người dân biểu tình chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc, thì đó chỉ có thể là chế độ bán nước của Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống mà thôi.

Có nhiều nghi vấn được nêu ra. Tại sao Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam lại chấp nhận đứng riêng lẻ, chống lại ý chí của toàn dân như vậy ? Tại sao Đảng Cộng sản Việt Nam lại phải hợp tác với kẻ thù, chịu cúi đầu tuân phục, trung thành với phương châm “16 chữ vàng và 4 tốt” do Trung Cộng đề ra ? Tại sao Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam phải tiếp tục ca tụng, kết giao “tình đồng chí” với kẻ thù xâm lăng tổ quốc, giết hại đồng bào mình ? Và lại còn cam kết "giải quyết hòa bình các bất đồng trên biển giữa hai nước thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị" việc Trung Cộng xâm chiếm biển đảo, giết người cướp của ngư dân Việt Nam ?

Toàn dân Việt Nam già trẻ lớn bé, trong và ngoài nước và cả thế giới ai cũng thấy, ai cũng biết rằng, Trung Cộng từng bước từng bước đánh chiếm đất nước mình, bắn giết đồng bào mình, nhưng Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam lại đơn giản chỉ cho đó là “các bất đồng” ?. Thậm chí, báo chí, tướng lãnh Trung Cộng còn hăm doạ, đòi “tát cho Việt Nam vỡ mặt” mà Nhà cầm quyền Việt Nam cũng gọi là “đàm phán hiệp thương hữu nghị trong hoà bình” ?

Lẽ nào do Nhà cầm quyền Cộng sản quá yêu Chủ nghĩa Xã hội ? Muốn tiến lên thế giới đại đồng ? Hay là do mắc kẹt cái Công Hàm năm 1958 của Phạm Văn Đồng ? Hay như lời Đại Lão Hoà thượng Thích Quảng Độ, trong cuộc trả lời phỏng vấn của Đại Á Châu Tự Do nhân việc Công an ngăn chặn, không cho Ngài và chư Tăng thuộc GHPGVNTN đi tham gia biểu tình chống Trung Cộng ngày 05.6.2011, Ngài đã nói : “…Mục đích của Đảng Cộng sản là làm cách nào để giữ đảng Cộng sản mà thôi, giữ đến cùng để truyền đời cha, đời con, đời cháu, đời chắt, đời chút, đời chít. Cho dù mất nước mà còn Đảng cũng được, có thể làm tay sai mà giữ Đảng được, họ cũng sẵn sàng, chứ họ không bỏ cái đảng Cộng sản đâu.”

Hoàn cảnh đất nước Việt Nam vừa nhỏ vừa yếu, một mình chắc chắn không chống lại Trung Cộng to lớn hùng mạnh. Tại sao Việt Nam không bắt chước Philippines, liên kết hợp tác với các nước trong khu vực đồng cảnh ngộ, hoặc với Hoa Kỳ hùng mạnh, để chống lại thế lực thù địch xâm lăng Trung Cộng ? Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam lại một mình lén lút, âm thầm ký kết giải quyết “song phương” với Trung Cộng, một kẻ xâm lược truyền kiếp đầy mưu mô, xảo quyệt ?


Vận nước đã đến, các nhân sĩ, trí thức, các nhà lãnh đạo các tôn giáo, các sinh viên học sinh cùng toàn thể nhân dân trong và ngoài nước nêu cao truyền thống Bốn ngàn năm giữ nước, dựng nước của các vua Hùng, của Bà Trưng, Bà Triệu, của Ngô Quyền, Lý Thái Tổ, Trần Nhân Tông, của Lê lợi, Quang Trung... đã từng dẹp Hán, phá Tống, bình Nguyên, kháng Minh, trừ Thanh đang quật khởi, đứng dậy cương quyết vạch trần, loại bỏ những kẻ nội ứng phản quốc Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống, cùng nhau một lòng chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc.

Thích Viên Định