Thứ Năm, 19 tháng 7, 2012

VĂN HỌC PHẬT GIÁO LÀ CON ÐƯỜNG 
TRI THỨC VƯỢT THOÁT
Thích Nguyên Siêu



Nền văn học Phật Giáo là phương tiện để con người lấy đó mà thâm nhập chủng tính Phật pháp rồi vượt thoát qua những gì bị trói buộc, giam hãm trong biển đời sinh tử trầm luân.
Nền văn học Phật Giáo đã giáo dục con người qua nhiều phạm trù trong đời sống, như nền văn học Thiền - dù yếu chỉ của Thiền bảo rằng: “Ngôn ngữ đạo đoạn. Tâm hành xứ diệt. Trực chỉ nhơn tâm. Kiến tánh thành Phật.” Con đường ngôn ngữ phải chấm dứt. Lằn vết của tâm đi được xóa bỏ. Chỉ thẳng vào lòng người. Thấy tánh mà thành Phật - là một nền văn học đồ sộ đã dẫn khởi con người thể nhập vào tự tánh giác ngộ của mình. Chư vị Thiền Sư đã sử dụng văn học Thiền như một công án để người tu Thiền gia tâm nghiên cứu mà đạt đạo.

I.   Văn Học Thiền - Ðề Khởi Một Công Án

Hầu hết các Thiền Sư trao truyền tâm ấn hoặc thúc đẩy học trò của mình vào thế dồn nén tâm thức để bùng vỡ thế giới tâm linh đều sử dụng ngôn từ nghịch lý, hay hành động kỳ quái, nghịch thường. Nhờ ngôn ngữ nghịch thường, hành động nghịch thường mà người học trò hoát nhiên đạt ngộ. Như Thiền Sư Tử Dung dạy Tổ Liễu Quán bằng câu thoại đầu: “Vạn pháp quy nhứt, nhứt quy hà xứ.” Muôn pháp đều quy về một, vậy một quy về chỗ nào ? Tổ Liễu Quán đã trải qua bao nhiêu năm tháng để nghiên cứu, ngày đêm tỉnh thức suy ngẫm. Sự tham cứu này giống như gà ấp trứng, mèo rình chuột, nhất tâm chú ý không xao lãng, không chểnh mảng, lơ là. Sự tập trung tâm ý vào một điểm - nhất tâm, chính là điều kiện đánh bật vọng thức để tỉnh thức dấy khởi, đẩy lùi vọng tâm để tĩnh tâm được tựu thành.
Câu thoại đầu hay một công án của nhà Thiền có thể làm cho người tu Thiền phải mất ăn, mất ngủ, lắm lúc quên cả chính mình. Như câu chuyện: Có một vị đạo sĩ tập trung tâm ý vào sự quán tưởng, tư duy về sự hình thành của vũ trụ vạn hữu, về sự hiện hữu của các thiên hà... mà quên mình đang đi trên đường, nên nhiều lần vị đạo sĩ đã bị sụp chân vào ổ gà. Từ sự sụp chân vào ổ gà trên đường ấy ông suy nghĩ tại sao dưới đôi chân không có con mắt để thấy đường đi. Từ sự suy tư này, vị đạo sĩ đã gia tâm, thành ý, nhất quyết tĩnh tâm quán chiếu nơi chân có đôi mắt, cho đến một hôm tâm thành, ý đạt vị đạo sĩ có được đôi mắt dưới chân, và kể từ đó vị đạo sĩ đi trên đường không còn bị sụp ổ gà nữa. Người thời ấy gọi vị đạo sĩ đó là “Túc Mục Tiên Nhơn” - ông tiên có mắt nơi chân.
Văn học Thiền là văn học nghịch thường không theo lẽ bình thường, người thường hay nói. Một nền văn học mang tính bất thường và vượt lên trên tất cả các nền văn học bình thường của người đời. Từ sự suy tư cho đến lời nói, từ cử chỉ sống hàng ngày cho đến các hành động việc làm cũng trái ngược. Có lẽ nền văn học Thiền dạy cho con người tập tư duy, quán chiếu mọi nếp sống con người thành nghịch thường, khác thường, để tâm thức con người không sống theo tập quán ngàn đời và xuôi theo dòng sinh tử, luân hồi, giờ phải đánh thức tâm linh để thấy được bản lai diện mục. Giá trị đánh thức của văn học Thiền là nghịch thường trên cái bình thường của thế nhân, nhằm in sâu vào tâm thức con người một dấu ấn để từ đó con người phá tung mọi thành trì cố hữu, mọi thói thường định kiến để vượt trên và vượt thoát. Như lời nói của Tổ Liễu Quán: “Thạch duẫn trừu điều trường nhứt trượng. Quy mao phất tử trọng tam cân.” - Búp măng trên đá dài một trượng. Phủ phất lông rùa nặng mấy cân. (Việt Nam Phật Giáo Sử Lược - TT Mật Thể, Tr. 203)
Theo thói thường và cái nhìn của con người xã hội thì làm sao có được mụt măng mọc trên đá dài một trượng và làm gì rùa có lông để lấy làm phất trần, nặng tới mấy cân. Ðây chính là chỗ u huyền của nền văn học Thiền đưa người đến sở ngộ.
Qua nhiều hình dạng đánh thức tâm tư hành giả bắt mình phải đối diện với chính mình để thấy được cội nguồn của bản giác, mà không phải lãng quên, vong thân của kiếp người sinh tử. Từ sự đánh thức, văn học Thiền đã dàn dựng qua bao sự nghịch lý, qua bao núi rừng trùng điệp, sông sâu, biển cả để cho hành giả khắc phục và vượt qua mà đạt đạo. Như hình ảnh một chiếc thuyền chèo lên non hoặc bốn vó ngựa chạy đua dưới biển là điều con người không thể tưởng tượng nổi, nhưng văn học Thiền thì không ít những hình ảnh này, để hâm nóng tâm trí hành giả trên con đường tìm cầu giác ngộ: “Cao cao sơn thượng hành thuyền. Thâm thâm hải để tẩu mã.” “Lung linh nước chảy qua đèo. Ngựa đua dưới biển thuyền chèo lên non” (sđd. Tr. 203) Những hình ảnh này in sâu vào tâm thức của hành giả như một công án được đề khởi trong mọi thời gian cho đến khi chín muồi như trái cây thì rơi rụng. Bóng tối của tâm được quét sạch. Những ước lệ của thế nhân chỉ là mộng. “Nhứt thiết hữu vi pháp như mộng, huyễn, bào, ảnh như lộ diệc như điển. Ứng tác như thị quán.” Tất cả các pháp hữu vi - pháp sanh diệt - giống như mộng huyễn, như sương mai, như ánh chớp chiều tà, như ráng nắng buổi hoàng hôn, tất cả đều không thật. Vậy thì ngựa có đua dưới biển hay trên đường đi, thuyền có chèo trên non hay trên mặt nước nó giống nhau đâu có khác gì. Ðích thực văn học Thiền đã xây dựng cho tâm thức hành giả bằng cái nhìn: “Chư pháp tùng duyên sinh. Diệt phục nhơn duyên diệt.” Các pháp do nhân duyên mà sinh, và cũng do từ nhân duyên mà diệt. Hành giả thấy được bản lai diện mục của mình như lời nói của Lục Tổ Huệ Năng:
“ Ðâu ngờ tự tánh vốn thanh tịnh
Ðâu ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt
Ðâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ
Ðâu ngờ tự tánh vốn chẳng lay động
Ðâu ngờ tự tánh hay sanh vạn pháp.”
(Pháp Bảo Ðàn Kinh - Mai Hạnh Ðức. Tr. 20)

Một khi tự tánh vốn dĩ thanh tịnh, vốn chẳng sanh diệt... thì các pháp hiện bày trước mắt tự tánh của nó cũng thanh tịnh, tự tánh của nó cũng chẳng sanh diệt, ở đệ nhất sát na. nhưng sở dĩ các pháp có sanh có diệt, có thường có đoạn... là vì tâm sinh phân biệt - đệ nhị sát na nên các pháp trùng trùng dấy khởi thành thiên hình vạn trạng. Văn học Thiền đã mở một con đường tri thức vượt thoát.
“Lô Sơn yên tỏa chiết giang triều
Vị đáo sanh bình hận bất tiêu
Ðáo đắc hoàn lai vô biệt sự
Lô Sơn yên tỏa chiết giang triều”

Mù tỏa Lô Sơn sóng chiết giang
Khi chưa đến đó hận muôn vàn
Ðến rồi cũng chẳng có gì lạ
Mù tỏa Lô Sơn sóng chiết giang

Tri thức vượt thoát là cái hiểu biết vượt lên trên cái hiểu biết thường tình của con người. Cái hiểu biết như nhiên, tịch lặng. Như nhiên như bản thể của vũ trụ vạn hữu và tịch lặng như các pháp từ xưa đến giờ không hề có sinh có diệt, như bài kệ:
“Chư pháp tùng bổn lai
Thường tự tịch diệt tướng
Xuân đáo bách hoa khai
Hoàng oanh đề liễu thượng.”
Các pháp từ xưa nay
Tướng nó thường vắng lặng
Xuân về trăm hoa nở
Hoàng oanh hót trên cành

Như nhiên là vậy. Tịch lặng là vậy. Hay nói một cách khác, Thiền là vậy. Ðó là con đường tri thức vượt thoát được biểu hiện qua ngôn ngữ như lời nói của vị Thiền Sư: “Sãi tôi ba mươi năm trước chưa học đạo thì thấy núi là núi, thấy nước là nước, rồi sau nhờ nhân duyên các thiện trí thức hướng dẫn con đường học đạo thì thấy núi chẳng phải là núi, thấy nước chẳng phải là nước. Nhưng ba mươi năm sau tu tập, ăn rong rêu nơi ghềnh đá, uống nước lạnh nơi suối trong, tọa thiền dưới cội tùng già, tâm tư thong dong như mây như gió thì thấy núi là núi, thấy nước là nước.”
Văn học Thiền đã đưa hành giả thong dong đến con đường vượt thoát, như có vị Tăng hỏi Triệu Châu: “Thế nào là ý của Tổ Sư từ Tây Trúc qua?” Triệu Châu nói: “Cây tùng bách ngoài sân.” Ðề khởi một công án, một câu thoại đầu cho người tham cứu, để rồi vượt thoát qua phạm trù đối đãi, sai biệt.

II.   Văn Học Bát Nhã - Tự Tánh Sự Vật Vốn Không.

Bằng trí tuệ - Bát Nhã chư vị Bồ Tát quán chiếu mọi sự vật được hình thành đều do duyên sinh thì chúng không có tự tánh tồn tại bởi chính nó. Ðây là cái nhìn thẩm thấu thực chất của sự vật. Ðạo Phật đã giáo dục con người có chánh tư duy, chánh kiến, chánh định, chánh tuệ... để nhìn đúng sự thật của sự vật, mà không lầm tưởng sợi dây là con rắn. Tự tánh sợi dây đã là vốn không huống nữa thấy sợi dây thành con rắn lại càng sai quấy hơn nữa. Như bài kệ:
“Bạch nhật kiến thằng thằng thị ma
Dạ lý kiến thằng thằng thị xà
Ma thượng sanh thằng du trí loạn
Khởi kham thằng thượng cánh sanh xà”

Ban ngày thấy dây, dây là gai,
Ban đêm thấy dây, dây là rắn
Gai thấy thành dây là trí loạn
Huống nữa là thấy dây thành rắn
(thì cái trí loạn đến cỡ nào)

Như vậy đủ biết thực chất của sự vật vốn không, không thực thể, không tồn tại bởi chính nó. Từ đó, đạo Phật đã giáo dục con người bằng nhãn quan tinh tế, tỉnh giác, chánh niệm để quán chiếu thực thể của sự vật. Trong phạm trù này, Tổ của Trung Quán Luận - Màdyamaka-Sàstra, Ngài Long Thọ - Nàgàrjua - nói:
Chẳng sinh cũng chẳng diệt,
Chẳng thường cũng chẳng đoạn
Chẳng một cũng chẳng khác,
Chẳng đến cũng chẳng đi.

Nói lên được pháp nhân duyên ấy
Khéo diệt trừ các thứ lý luận
Tôi cúi đầu kính lễ Phật, đã thuyết
Nhân duyên cao nhất trong các thuyết.
(Trung Luận - HT Thiện Siêu. Tr. 9)

“Bồ Tát Long Thọ (Nàgàrjuna) làm luận để thuyết minh lý Trung Ðạo thật tướng bằng cách quán sát thật tướng trực tiếp các pháp, phân tích, so sánh, đối chiếu giữa các mặt của mỗi pháp để tìm ra thật tính của nó, cuối cùng chỉ thấy các pháp do nhân duyên mà hiện hữu, không pháp nào có thật tính...” (sđd)
Nhìn sự vật bên ngoài rồi quán chiếu tự thân mỗi người cũng đều không thật có. Vì tự thân con người không thật có nên tự thân con người nằm trên tiến trình của sự sinh, già, bệnh, chết. Chết là sự kết thúc của ba tướng trạng: sinh, già, bệnh. Như vậy tự thân của con người không có thật tính bởi chính nó. Ðiều này đã được nói rất rõ trong kinh Bát Nhã: “Khi (1) Bồ Tát Quán Tự Tại (Avalokitérsavara) thực hành Bát Nhã Ba La Mật sâu xa, soi thấy rằng, có năm Uẩn (Skandha) (2); và thấy năm Uẩn đó không có tự tánh trong chúng (3)” (Thiền Luận 3. Tuệ Sỹ, 1989. Tr. 327)
Vì tự thân con người không có thật tính bởi chính nó nên tự thân con người mãi luôn thay đổi, biến chuyển từ thuở chào đời cho đến ngày chết. Suốt một quá trình của cái gọi là cuộc sống đã cưu mang và hiện bày không biết bao nhiêu tướng trạng - (các tướng trạng ấy cũng không có thật tính). Như trong phần Bát Nhã và Như Huyễn, qua cuộc vấn đáp của Phật và Tu Bồ Ðề:
“Phật hỏi Tu Bồ Ðề: Này Tu Bồ Ðề, ý ông nghĩ sao, Huyễn (Màyà) khác với Sắc (Rùpam) (1), Sắc khác với Huyễn? Lại nữa, ý ông nghĩ sao, Huyễn khác với Thọ (Vedanà), Tưởng (Samjnà), Hành (Samskàra) và Thức (Vijnàna) ? và Thọ, Tưởng, Hành, Thức khác với Huyễn ?
“Tu Bồ Ðề thưa: Bạch Ðức Thế Tôn, chúng không khác. Nếu Sắc khác Huyễn, Sắc không phải là Sắc, nếu Huyễn khác với Sắc, Huyễn không phải là Huyễn. Huyễn là Sắc và Sắc là Huyễn. Thọ, Tưởng, Hành và Thức cũng vậy.” (Thiền luận 3. Tuệ Sỹ , 1989. Tr. 398)
Văn học Bát Nhã đã khai triển nguồn tri thức diệu dụng để con người không đắm chìm trong thế giới hữu vi, bọt bèo trôi nổi. Chính nguồn tri thức diệu dụng này đã là phương tiện cho bao nhiêu người, hành giả thể đạt sở tu mà thành thánh giả. Văn học Bát Nhã cũng cho con người một cái nhìn tích cực vào sự vật muôn màu, muôn vẻ, thiên lưu, chuyển biến. Chính thể trạng thiên lưu, chuyển biến của vạn hữu mà trí tuệ - Bát Nhã đã chuyển mê khai ngộ, chuyển phàm thành thánh, nhưng không câu chấp - nhơn ngã câu không - để vượt thoát. Bằng cái nhìn tích cực và xây dựng đó, văn học Bát Nhã giữ một vai trò quan trọng trên con đường giác ngộ giải thoát.
Ðể không bị dính mắc trong cái tôi, hay ngã chấp mà thường tình con người luôn sống với cái tôi, hay chấp ngã ấy, văn học Bát Nhã đã phá tung tất cả mọi ràng buộc cố hữu của con người, và mở ra cho con người một chân trời hạo nhiên, như thái. Nơi đây, mọi thứ mang tính sai biệt, đối đãi, không còn, mọi hình thái chủ quan, vọng chấp cũng mất, chỉ thuần một thế giới chân như, một khung trời tịch tĩnh. Văn tự Bát Nhã cũng bặt dứt, nhưng vì biểu hiện tự tánh của vạn hữu mà phải dùng phương tiện Bát Nhã để diễn đạt một thứ ngôn ngữ như là: “Thật tế lý địa bất thọ nhất trần. Phương tiện môn trung bất xã nhất pháp.” Như bài kệ của Vĩnh Gia Huyền Giác trong Chứng Ðạo Ca:
“Liễu liễu kiến vô nhất vật
Diệc vô nhân diệc vô Phật
Ðại thiên thế giới hải trung âu
Nhất thiết Thánh Hiền như điện phất”

“Thấy tỏ rõ ! Chẳng có gì !
Không người ta cũng không Phật
Ðại thiên thế giới như cánh bèo trên đại dương
Hết thảy Thánh Hiền như điện chớp”
(sđd. Tr. 435)

III.   Văn Học Hoa Nghiêm - Một Thế Giới Quan Trùng Trùng Vô Tận

Một tức là tất cả. Tất cả tức là một. Ðây là lời nói nội hàm toàn triệt sự sự vật vật, dung thông vô ngại, sự hình thành vũ trụ vạn hữu, sự hiện hữu vạn vật, thiên nhiên do các nhơn duyên, tương dung, tương nhiếp. Từ đó, chiêm nghiệm để thấy một vũ trụ quan của Phật Giáo hình thái như những mắt lưới có sự liên đới chặt chẽ, thích hợp. Từ thế giới này liên quan đến thế giới khác. Từ cảnh Phật này liên quan đến cảnh Phật khác trùng trùng giao thoa vô tận.
Một quốc độ của Phật đến vô lượng quốc độ của chư Phật đều chan hòa trong bốn pháp giới:
- Lý vô ngại pháp giới
- Sự vô ngại pháp giới
- Lý Sự vô ngại pháp giới
- Sự Sự vô ngại pháp giới.
“Lý” tức là chân lý thật tánh, là thể tánh chân thật của tất cả các pháp. Tất cả các pháp trong vũ trụ đều đồng nhất một thể tánh chân thật ấy. Thể tánh ấy dung thông vô ngại, nên gọi là lý vô ngại pháp giới.”
“Tất cả pháp, “Sự” đều đồng một thể tánh chân thật tức là đồng lấy pháp tánh làm tự thể. Toàn thể “Sự” là pháp tánh mà pháp tánh đã viên dung vô ngại, thời toàn “Sự” cũng vô ngại, nên gọi là “Sự vô ngại pháp giới”
“Lý là thể tánh của “Sự” (tất cả pháp”. “Sự” là hiện tượng của “Lý tánh”. Vậy thời lý tánh là lý tánh của Sự, còn Sự lại là Sự tướng của lý tánh. Chính lý tánh là toàn sự mà tất cả Sự là toàn lý tánh, nên gọi là “Lý Sự vô ngại pháp giới”
“Tất cả Sự đã toàn đồng một thể tánh mà thể tánh thời dung thông không phân chia riêng khác, nên bất luận là một Sự nào cũng đều dung nhiếp tất cả Sự, và cũng đều tức là tất cả Sự, một sự nhiếp và tức tất cả Sự, tất cả Sự nhiếp và tức một Sự. Thế là Sự Sự vô ngại tự tại, nên gọi là “Sự Sự vô ngại pháp giới” (Kinh Hoa Nghiêm Tập I. HT Trí Tịnh. Tr. 8)
Văn Học Hoa Nghiêm đã tạo dựng một thế giới quan giữa người với người, giữa sự vật với sự vật thật gần gũi với nhau. Sự sống của mình tức là sự sống của người. Sự sống của đất cát, cây cỏ, sỏi đá... tức là sự sống của con người và ngược lại. Do vậy mà lòng Từ Bi của đạo Phật được trang trải khắp mọi thời, mọi chốn, mọi pháp giới chúng sinh. Môi trường sống của vạn sự, vạn vật, ánh nắng mặt trời nuôi sống con người thì cũng có nghĩa là nuôi sống tất cả các loài hữu tình, vô tình - đều trọn thành Phật đạo. Chung quanh cuộc sống của xã hội loài người, đã có không biết bao nhiêu cuộc sống của môi sinh, đất nước, núi rừng, biển cả, cây trái phụng sự cho xã hội con người một đời sống lành mạnh, thơ mộng nhiều ý nghĩa.
Thế giới của không khí đã cho không khí mọi loài hít thở để sống. Thế giới của ánh nắng mặt trời đã cho hơi ấm và ánh sáng để mọi người được sống mạnh khỏe, được nhìn thấy nhau mà tạo dựng đời sống hạnh phúc, bình an. Thế giới của cây xanh đã cho nhiều dưỡng tố. Thế giới của trái ngọt đã cho nhiều sự tươi tắn trong lòng. Thế giới của nước đã cho muôn loài nhuần thắm, thanh lương và tất cả thiên hà tinh tú đều có ảnh hưởng đến thế giới loài người, và cũng vậy, thế giới loài người cũng liên quan mật thiết đến thiên hà, tinh tú.
Thực tế trong cuộc sống này, chẳng ai có thể tạo dựng cho riêng mình một thế giới sống độc lập mà không có sự tương dung, tương tác. Ðời sống của một cá nhân tức là đời sống của tất cả. Trong ý nghĩa này, Bồ Tát Duy Ma Cật đã thị hiện bịnh: “Bồ Tát bịnh vì chúng sinh bịnh. Chúng sinh hết bịnh thì Bồ Tát hết bịnh.” Lòng Từ Bi của đạo Phật, vũ trụ quan của đạo Phật là như thế.
Văn Học Hoa Nghiêm đã nối thế giới của tự thân vào thế giới của tha nhân, sum la vạn tượng. Từ đó con người có bổn phận trách nhiệm với nhau trong xã hội này, trên tinh thần xây dựng, bảo vệ và thăng hoa. Ðạo Phật đã tích cực xây dựng một vũ trụ quan đẹp để có một nhân sinh quan đẹp giữa người và đại thể vũ trụ. Như tâm nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền trong Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Pháp Giới: “Trong số cực vi khắp hư không pháp giới mười phương ba đời tất cả cõi Phật. Mỗi cực vi đều có cõi Phật rộng lớn nhiều như số cực vi trong bất khả thuyết, bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi cõi trong một niệm đều có tất cả chư Phật thành đẳng chánh giác số đông như số cực vi trong bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật...” (sđd, tr. 2252)
Văn học Hoa Nghiêm đã cho người học Phật một cái nhìn thấu triệt từ thế giới này sang thế giới khác, không ngăn ngại. Một thế giới tức là vô lượng thế giới, vô lượng thế giới tức là một thế giới. Nếu không có văn học Hoa Nghiêm hiển bày thế giới quan của Phật Giáo thì người đời thường cho rằng, chỉ có một thế giới - quả địa cầu, duy nhất của loài người đang sống mà thôi, ngoài quả địa cầu này không có một thế giới nào khác hơn nữa. Nhưng cho đến hôm nay - Thế Kỷ 21, văn minh tiến bộ, khoa học kỹ thuật của loài người đã khám phá ra thế giới của mặt trăng, thế giới của hỏa tinh... như vậy, ngoài thế giới của trái đất này còn có nhiều thế giới khác nữa. Qua cái nhìn của đạo Phật - nền văn học Hoa Nghiêm đã xây dựng một vũ trụ quan tương dung, tương tác, trong vô tận thế giới. Ngoài thế giới của loài người con có thế giới của chư Thiên, A Tu La, địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh... thế giới hữu tình, thế giới vô tình... không nói hết. Trật tự xã hội con người có đủ mọi thứ, từ sự ăn lông ở lỗ, thô sơ mộc mạc, lam lũ chân tay cho đến sự văn minh, tân tiến để thăng hoa đời sống vật chất cho đến tinh thần, tâm linh huyền diệu. Song song với đời sống xã hội con người thì thế giới của loài vật cũng có nhiều vô số kể. Thế giới của các loài vật - cá, cua, tôm, ốc... sống dưới lòng đại dương, ao, hồ, sông rạch... thế giới của các loài đi bằng chân, bò bằng bụng... sống trên mặt đất, thế giới của các loài vi khuẩn, vi trùng nhỏ nhiệm... sống trong không gian, trong môi trường của các sinh thể... Tất cả những đời sống của thế giới hữu tình vô tình ấy đều có sự liên quan mật thiết đến con người. Ngoài thế giới của loài hữu tình còn nhiều thế giới mà thường gọi là vô tình, mà thật ra chẳng vô tình chút nào, như cỏ, cây, sỏi, đá... như mây, mưa, không khí, ánh sáng mặt trời, ánh sáng mặt trăng và các tinh tú khác, đã cho sức sống đến thế giới loài người nhiều vô kể. Từ đây, văn học Hoa Nghiêm đã thực sự liễu giải để cho con người có kiến văn tu tập, có hàm lượng chứng đắc qua một vũ trụ quan của đạo Phật trùng trùng vô tận.

IV. Văn Học Pháp Hoa: Thọ Ký con Người Thành Phật

Phẩm Phương tiện thứ hai trong bộ Kinh Pháp Hoa, Ðức Phật dạy: “Xá Lợi Phất ! Sao nói rằng các Ðức Phật Thế Tôn chỉ do một nhân duyên lớn mà hiện ra nơi đời ? Các Ðức Phật Thế Tôn vì muốn cho chúng sinh khai tri kiến Phật để được thanh tịnh mà hiện ra nơi đời; vì muốn chỉ tri kiến Phật cho chúng sinh mà hiện ra nơi đời; vì muốn cho chúng sinh tỏ ngộ tri kiến Phật mà hiện ra nơi đời; vì muốn cho chúng sinh chứng vào đạo tri kiến Phật mà hiện ra nơi đời.” (Kinh Pháp Hoa, Phẩm Thứ 2, HT Trí Tịnh, tr. 74)
Ðức Phật vì hạnh nguyện, vì thương tưởng, vì lòng Từ Bi cứu độ chúng sinh mà thị hiện nơi đời. Ðây là một nhân duyên lớn. Sự cứu độ ấy qua 4 phạm trù:
- Mở bày Tri Kiến Phật - Khai.
- Chỉ thấy Tri Kiến Phật - Thị.
- Tỏ rõ Tri Kiến Phật - Ngộ.
- Chứng vào đạo Tri Kiến Phật - Nhập.
Như vậy, văn học Pháp Hoa đã cho thấy Ðức Phật thị hiện nơi đời là vì con người, cho con người và của con người. Bằng mọi phương tiện thiện xảo, Ðức Phật mở bày chỉ vẽ, dẫn dụ làm hiển lộ Tri Kiến Phật. Làm cho Tri Kiến Phật không còn bị che mờ bởi mây vô minh, phiền não, si mê phủ lấp. Ðây là nhân tố thứ nhất mà trước tiên con người phải có, phải thể đạt một cách vẹn toàn. Bằng sự mở bày Tri Kiến Phật mà Ðức Thế Tôn thuyết pháp 49 năm hóa độ. Khi thì Ðức Thế Tôn giảng dạy:
Ðây là Khổ các con phải biết
Ðây là Tập các con phải đoạn
Ðây là Diệt các con phải chứng
Ðây là Ðạo các con phải tu.

Hoặc:
Chớ làm các việc ác
Nguyện làm các việc lành
Giữ tâm ý trong sạch
Là lời chư Phật dạy.

Bằng mọi phương tiện, Ðức Thế Tôn mở bày Tri Kiến Phật, để đến nhân tố thứ hai là chỉ cho thấy cái Tri Kiến ấy. Mở bày Tri Kiến Phật để rồi chỉ cho chúng sinh thấy Tri Kiến Phật, đây là việc làm của Ðức Phật. Còn hai yếu tố thứ ba và thứ tư là của chúng sinh, ấy là tỏ rõ Tri Kiến Phật - Ngộ và chứng vào đạo Tri Kiến Phật - Nhập. Có Ngộ và Nhập được hay không là do ở sự tu tập của chúng sinh. Nhưng sự tu tập này để cho chúng sinh được Ngộ và Nhập, Ðức Phật vẫn tiếp tục hướng dẫn, giáo hóa để cho chúng sinh nương theo ấy mà hành trì rồi chứng đắc: Ngộ, Nhập. Như Ðức Phật dạy con người: “Như tiêu chỉ nguyệt” - nương ngón tay để thấy mặt trăng. Cũng vậy, nương giáo pháp tu học để đến bến bờ giác ngộ - Giáo pháp như chiếc bè đưa người qua sông. Ðức Phật luôn hướng tâm chúng sinh đến bờ giác ngộ, luôn dạy dỗ chúng sinh để tâm được tỉnh giác, thanh tịnh:
“Tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác tất cả. Nếu ai nói hay làm với một tâm thiện, thì hạnh phúc sẽ theo sau như bóng theo hình”....
Hay:
“Chư hành vô thường
Thị sanh diệt pháp
Sanh diệt diệt dĩ
Tịch diệt vi lạc”

Các hành là vô thường
Là pháp sanh diệt
Sanh diệt diệt rồi
Tịch diệt an vui.

Là người Phật tử, tất cả đều nghe lời Phật dạy: “Nhứt thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh.” - tất cả chúng sinh đều có tánh làm Phật. Hoặc: “Ta là Phật đã thành, các con là Phật sẽ thành.” Từ đây nền văn học Pháp Hoa đã đi vào cụ thể, hiển bày sự thành Phật của từng mỗi cá nhân.
“Ông Ma Ha Ca Diếp, đệ tử của Ta, ở đời vị lai sẽ phụng thờ ba trăm muôn ức các Ðức Thế Tôn, cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen, rộng nói vô lượng đại pháp của các Ðức Phật, ở nơi thân rốt sau được thành Phật hiệu là Quang Minh Như Lai... Nước tên là Quang Ðức, kiếp tên là Ðại Trang Nghiêm. Phật thọ 12 tiểu kiếp. Chánh pháp trụ thế hai mươi tiểu kiếp... Bồ Tát trong nước đó đông vô lượng nghìn ức, các chúng thanh văn cũng lại vô số...” (sđd, tr. 220)
Cũng vậy Tôn Giả Xá Lợi Phất, Tôn Giả Ðại Ca Chiên Diên, Tôn Giả A Nan, Tôn Giả La Hầu La... cho đến Tỳ Kheo Ni Gia Du Ðà la: “Ở đời sau trong pháp hội của trăm nghìn muôn ức Phật, tu hạnh Bồ Tát, làm vị đại pháp sư, lần lần đầy đủ Phật đạo trong cõi thiện quốc sẽ được thành Phật hiệu là Cụ Túc Thiên, Vạn Quang Tướng Như Lai...” (sđd, tr. 375). Cho đến Long Nữ 8 tuổi thành Phật, hoặc nhờ Ðề Bà Ðạt Ða trong tiền kiếp mà Ðức Thế Tôn thành Phật sớm hơn v.v... Tất cả những lời thọ ký, những con người thành Phật, trong Kinh Pháp Hoa nói rất rõ.
Như vậy, văn học Pháp Hoa là nếp sống đẹp, là dẫn khởi con đường tiến lên bậc Thánh. Là con đường thể nhập Nhất Thừa Ðạo. Ðây chính là một tinh thần khích lệ, tự tin để vượt thoát cho mỗi con người, chúng sinh trong cuộc sống này. Con người tự tin rằng chính mình có khả năng tu tập thành Phật. Chính mình có những đức tính, chất liệu nhân tố để thành Phật thì tất cả đều hăng hái, tinh cần, mà tiến bước trên con đường giác ngộ, giải thoát mà không ái ngại, chần chờ hay lo âu, nghi ngại. Ðây chính là tinh thần tích cực của đạo Phật, xây dựng một đời sống thánh thiện. Một đời sống tâm linh cao cả. Một đời sống giác ngộ. Một đời sống Phật.

V.  Văn Học Pháp Cú: Ðánh Thức Bởi Chính Mình

Kinh Pháp Cú là những bài kệ nhỏ, tùy nhân duyên, hoàn cảnh mà Ðức Phật thuyết giảng. Nội dung của Kinh là đánh thức con người tỉnh giác, để nhìn lại, quán chiếu tâm tư để thấy tâm trong sạch hay ô nhiễm, thân thanh cao hay thô lậu, miệng từ hòa hay vô độ, từ đó mà tu sửa trở thành người tốt trong nhân quần xã hội, trong cộng đồng người trên thế gian. Những bài kệ của Kinh dạy như là:
“Nó nhục mạ ta,
Hành hung, đánh bại,
Và tước đoạt ta.”
Lòng ai ôm giữ,
Niềm oán hận ấy,
Thì sự hận thù,
Không thể nguôi ngoai.”

“Nó nhục mạ ta,
Hành hung, đánh bại,
Và tước đoạt ta.”
Ai không ôm giữ,
Niềm oán hận ấy,
Thì sự hận thù,
Tự nhiên lắng xuống.”
(Pháp Cú 4 & 5. Pháp Cú Nam Tông. Tr. 005. 2545. Trí Quang biên tập)

Thói thường, ai đánh mình một cái thì mình đánh trả một cái. Ai chửi mình một lời, mình chửi lại một lời... Nhưng nơi đây, văn học Pháp Cú đã dạy cho con người biết nhẫn nhục và không ôm lòng hận thù. Sự nhẫn nhục này nằm trong khuôn thước của Từ Bi, Trí Tuệ chứ không phải vì yếu đuối, sợ hãi.
Khuôn thước của Từ Bi, Trí Tuệ dạy cho con người biết ban vui cứu khổ, biết nhường cái hậu, nhận cái bạc, biết thương người như thương thân mà xây dựng cuộc sống nhiều ý nghĩa và giá trị chân thật. Khuôn thước Trí Tuệ để quán chiếu sự thù hận là tiến trình nhân quả không tốt, là sợi dây oan nghiệt trói buộc lẫn nhau. Do vậy, hận thù cần phải mở chứ không nên buộc. Càng buộc, càng hận thù thì khó có thể tu tập và vượt thoát.
Tình thương là chất liệu cần có cho cuộc sống giữa người với người, giữa sự vật với sự vật, giữa chúng sinh với chúng sinh. Dù con người sống trong thời gian nào, quá khứ, hiện tại hay tương lai cũng cần chất liệu tình thương để hít thở, để sống. Do vậy, văn học Pháp Cú đã hiện thân giữa đời ác nhiều hơn thiện, giữa cái chấp ngã nhiều hơn cái vô ngã, giữa cái vô minh nhiều hơn cái minh, giữa cái tham, sân, si nhiều hơn cái vô tham, vô sân, vô si để hóa độ, dìu dắt con người mà vượt thoát, như bài kệ sau đây:
“Tâm thì thác loạn,
Khó mà phòng vệ,
Nên người có trí
Thì lo thuần hóa
Tâm mình cho thẳng
Như thợ làm tên
Tên uốn cho ngay.”
(Pháp Cú 34 - Sđd, tr. 16)

Ðể tự đánh thức mình, văn học Pháp Cú còn khẳng định rằng:
“Chiến thắng triệu người
Tại bãi chiến trường
Cũng vẫn không bằng
Chiến thắng bản thân.
Chiến thắng bản thân
Mới là chiến công
Trội hơn tất cả.”
(Pháp Cú 104 - Sđd, tr. 052)

Tam Tạng Kinh, Luật, Luận của đạo Phật là một văn khố hàm dụng con đường tu tập giải thoát cho con người. Nếu ai biết dụng công và thừa tự thì chính văn khố ấy có đủ hương vị giải thoát.
Một cách khái lược, trình bày và trích dẫn một số đoạn Kinh để người đọc có cái nhìn thẩm thấu rằng văn học Phật Giáo quả thật là con đường Tri thức vượt thoát. Văn học Phật Giáo hoàn toàn không hệ lụy với màu sắc trần gian mà vượt cao và bay xa đến tận chân trời giải thoát.
Hơn 2500 năm qua, Ðức Phật đã dạy rằng: “Những điều mà Ðức Phật chứng ngộ thì nhiều như lá trong rừng, còn những điều Ðức Phật giảng dạy lại cho con người ít như nắm lá trong bàn tay.” Những điều giảng dạy ít như thế, nhưng vô cùng quý báu, có giá trị siêu thoát thời gian, không gian. Chỉ cần nếm được một giọt nước giải thoát, cũng làm cho con người trở nên thánh thiện. Chỉ cần sanh tâm thanh tịnh thì cũng siêu xuất ba cõi.
Nền văn học Phật Giáo: Tam vô lậu học - Giới, Ðịnh, Tuệ là phương tiện duy nhất để vượt thoát bến mê sinh tử, là bản đồ dẫn đường để chuyển mê khai ngộ, chuyển phàm thành Thánh, hay một cách bình thường của cuộc sống là chất liệu dinh dưỡng cho con người một phong thái tự tại, an lạc giữa cuộc đời này. Phong thái ấy là cốt lõi của sự tự tri, tự giác; là nhân sinh quan đẹp của một kiếp người.
Ðồi Pháp Vương
Mùa Ðông Kỷ Sửu - 2009
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT HẢI NGOẠI CANADA
ĐẠI HỘI KHOÁNG ĐẠI KỲ V

QUYẾT NGHỊ 

Trong 3 ngày, 12, 13 và 14 tháng 7 năm 2012 tại Trung Tâm văn Hóa Phật Giáo Chùa Pháp Vân, Thành Phố Mississauga, Tỉnh Bang Ontario, Canada, khoảng 100 chư tôn đức Tăng, Ni và Cư sĩ thuộc Hội Đồng Chứng Minh, Hội Đồng Điều Hành, Hội Đồng Giám Sát, các tự viện, đơn vị cơ sở, Gia Đình Phật Tử Việt Nam, là thành viên Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Canada (GHPGVNTNHN Canada) đã cùng nhau tụ họp trong tinh thần hòa hợp như Chánh Pháp để kiểm điểm Phật sự trong nhiệm kỳ đã qua, đề xuất Phật sự cho nhiệm kỳ sắp tới, cung thỉnh thành phần nhân sự Hội Đồng Điều Hành, Hội Đồng Giám Sát cho nhiệm kỳ 2012-2016.
 Trong hướng chung của Đại hội, toàn thể chư tôn đức Tăng, Ni và Cư sĩ thành viên GHPGVNTNHN Canada đồng tâm nhận định rằng:
 1- Trong suốt 20 năm có mặt trên đất nước Canada, từ ngày thành lập Giáo Hội vào năm 1992 cho đến nay, dù trải qua bao nhiêu chướng duyên và nghịch cảnh từ bên trong lẫn bên ngoài, GHPGVNTNHN Canada vẫn giữ vững lập trường kiên định đối với sứ mệnh hoằng dương Chánh Pháp của Đức Phật và lịch đại tổ sư, đối với công cuộc bảo vệ và phát huy nền văn hóa dân tộc và Phật Giáo Việt Nam tại xứ người;
 2- Nội lực đích thực của Giáo Hội nằm trong hai yếu tính quyết định: Bản thể thanh tịnh hòa hợp của Tăng Già và chánh tín kiên định đối với Tam Bảo của hàng ngũ cư sĩ Phật tử. Bản thể thanh tịnh hòa hợp của Tăng Già được tỏa sáng nhờ giới đức trang nghiêm, đạo hạnh sung mãn của từng thành viên trong cộng đồng Tăng Già. Chánh tín Tam Bảo được vững bền nhờ học hiểu và tu tập đúng chánh pháp của hàng Phật tử tại gia.
 3- Từ lúc thành lập cho đến nay, GHPGVNTNHN Canada vẫn lấy tinh thần phụng sự nhân loại và dân tộc của Hiến Chương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất làm lập trường căn bản. Phụng sự nhân loại bằng con đường xiển dương chánh pháp mang lại nếp sống an lạc, hòa bình cho tha nhân. Phụng sự dân tộc bằng con đường thừa tiếp sứ mệnh chuyển mê khai ngộ, góp phần vào việc bảo vệ và phát huy phẩm giá bình đẳng của mọi người, cũng như công cuộc dựng nước, giữ nước mà lịch sử hai ngàn năm Phật Giáo Việt Nam đã thể hiện.
 Từ những nhận định trên, chư tôn đức Tăng, Ni và Cư sĩ thành viên GHPGVNTNHN Canada nhất tâm Quyết Nghị rằng:
 1- Tiếp tục phát huy nhiều hơn nữa vai trò của GHPGVNTNHN Canada để góp phần vào công cuộc hoằng dương Chánh Pháp, mà cụ thể là vận động và khích lệ chư tôn đức Tăng Ni trẻ dấn thân thực hiện việc xây dựng chánh tín cho quần chúng Phật tử, tiếp cận và kết hợp các thành phần cư sĩ Phật tử qua việc tổ chức các khóa tu học, thuyết giảng, sinh hoạt văn hóa Phật Giáo trong những dịp lễ lớn của truyền thống dân tộc và Phật Giáo Việt Nam.
 2- Thực hiện và hoàn chỉnh bộ Nghi Thức Tụng Niệm thống nhất cho tất cả mọi khóa lễ vừa mang bản sắc truyền thống Phật Giáo Việt Nam vừa phù hợp với trình độ, ngôn ngữ và sinh hoạt của cộng đồng Phật Giáo Việt Nam tại hải ngoại.
 3- Để góp phần vào việc làm trang nghiêm Tăng Đoàn và tạo thuận duyên sinh hoạt cho Tăng, Ni, GHPGVNTNHN tại Canada từng bước tiến hành việc lập danh sách và cấp thẻ Tăng Tịch có hình cho tất cả thành viên của Giáo Hội.
 4- Đối với việc phục vụ Dân tộc, GHPGVNTNHN tại Canada kêu gọi chính quyền Cộng Sản Việt Nam tôn trọng các quyền tự do căn bản và nhân quyền của mọi công dân; đồng thời ủng hộ các nỗ lực của người Việt trong và ngoài nước trong công cuộc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải Việt Nam mà ông cha đã dày công tạo dựng và bảo vệ.
 Quyết Nghị này gồm 3 nhận định và 4 quyết nghị đã được toàn thể Đại Hội Khoáng Đại Kỳ V của GHPGVNTNHN tại Canada thông qua trong phiên khoáng đại vào lúc 4 giờ chiều ngày 13 tháng 7 năm 2012.
 Phật lịch 2556, làm tại Thành Phố Mississauga, Tỉnh Bang Ontario, Canada, ngày 14 tháng 7 năm 2012.


TRUYỀN THỐNG BẮC TÔNG
TRONG LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Hòa Thượng Thích Chánh Lạc giảng tại Đại Học Hè PG năm 2012

Sau khi Đức Phật niết bàn, ngài Ma ha Ca Diếp triệu tập 500 vị đệ tử ở thành Vương Xá kết tập lại những lời Phật dạy, gọi là Quật Nội kết tập. Đồng thời cũng có ngài Ba Sư Ca triệu tập rất nhiều tăng chúng kết tập đạo lý của Phật, gọi là Quật Ngoại kết tập. Nhân đó, Phật giáo bắt đầu chia ra hai phái: Thượng Tọa và Đại chúng.

Rồi đến kỳ kết tập thứ 2, cách Phật niết bàn khoảng 100 năm.
Kỳ kết tập thứ 3, cách Phật niết bàn 235 năm.
Kỳ kết tập thứ 4, cách Phật niết bàn hơn 400 năm.
Qua các kỳ kết tập ấy, Phật giáo tuy chia ra làm 20 bộ phái, nhưng giáo chủ và giáo lý vẫn không hai.

Hai kỳ kết tập đầu có tính cách truyền khẩu, hai kỳ kết tập sau mới biên chép thành kinh điển bằng hai lối văn Phạn và Pali.

Về sau các học gỉa Âu châu nghiên cứu về Phật giáo họ lấy Ấn Độ làm trung tâm và chia ra: Nam phương và Bắc phương Phật Giáo. Nam phương theo văn hệ Pali, Bắc phương dùng Sanskrit.

Về Nam phương có các nước: Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Cam bốt, Lào…
Về Bắc phương có các nước: Népa, Tây Tạng, Trung Quốc, Đại Hàn, Nhật Bản, Việt Nam…

Thực ra, nói Nam phương và Bắc phương là y cứ về mặt địa lý hơn là y cứ về phương diện giáo lý. Tuy nhiên, phải công nhận rằng Bắc truyền Phật giáo phần nhiều thuộc PHÁT TRIỂN PHẬT GIÁO, còn Nam truyền thì nặng tính bảo thủ hơn.

Kể từ khi Phật Giáo chia thành bộ phái, mỗi bên kiến giải khác nhau nên phát triển (Đại thừa) Phật Giáo hình như không còn lưu hành ở ấn Độ nữa. Mãi tới đầu thế kỷ ở bắc Ấn Độ có Mã Minh Bồ Tát ra đời, làm luận Đại thừa khởi tín và nhờ sự ủng hộ triệt để của vua Ca Nị Sắc Ca (Kaniska), từ đó Đại thừa Phật Giáo dần dần phục hoạt.

Sau đó 100 năm, Ngài Long Thọ ra đời và làm khai tổ về Đại thừa Không Tông cùng Chân Ngôn Tông, khiến Đại thừa Phật Giáo càng rạng rỡ hơn nữa. Ngài trứ tác Trung Quán Luận, Thập Nhị Môn Luận, Đại Trí Độ Luận…

Nối tiếp Ngài Long Thọ có hai vị đệ tử là Long Trí và Đề Bà, cả hai đều chủ trương phá dẹp ngoại đạo, Tiểu thừa hoằng dương Đại thừa Phật Giáo.

Phật Giáo truyền vào Việt Nam lùc nầy.Tuy vậy, lúc bấy giờ ở Bắc Ấn Tiẻu thừa giáo vẫn còn thịnh. Ngài Ha Lê Bạt Ma (Hari Marman) chiết trung học lý của các bộ phái làm ra Thành Thật Luận. Luận nầy phát huy đạo lý Nhân Không, Pháp Không, có ý tổng hợp Đại, Tiểu thừa trong đó. Do đó, Tiểu thừa giáo ở Ấn Độ đến đây có thể bảo là kết thúc.

Sau khi Phật diệt độ khỏang 900 năm, có Ngài Vô Trước người Bắc Ấn, sau đến Trung Ấn đề xướng Đại thừa Duy thức. Em Ngài là Thế Thân viết Câu Xá Luận, trước theo Tiểu thừa, sau về Đại thừa và cả hai anh em đều tận lực xương minh giáo nghĩa Đại thừa Duy thức.

Đức Phật thị hiện niết bàn khoảng 1000 năm là lúc Phật Giáo Ấn Độ phát triển cao độ, có nhiều bậc đại đức, luận sư xuất hiện tuyên dương giáo nghĩa Đại thừa.

Nhưng, khoảng 2.000 năm sau Phật Niết bàn, Bà la môn giáo phục hưng, lại có Hồi giáo ở Thổ Nhĩ Kỳ (Turquie) xâm nhập Ấn Độ, cả hai giáo ấy đều tận lực bài xích Phật Giáo bằng mọi thủ đoạn khốc liệt: Đốt tháp phá chùa, hủy diệt chánh pháp, giết hại Tăng tín đồ, Phật Giáo cơ hồ lâm cảnh tuyệt diệt!.

Đến thế kỷ thứ 19, nước Anh đến Ấn Độ, người Âu châu để tâm nghiên cứu Phật Giáo và tỏ lòng ca ngợi. Do đó, người Ấn mới lên tiếng kêu gào: Phục hưng Phật Giáo.

Ravendrachilala là một học gỉa Phật Giáo người Âu tây đầu tiên để tâm nghiên cứu Phật Giáo Ấn Độ. Tiên sinh căn cứ vào 144 loại kinh về Phạn bản ở Népal, làm ra cuốn Népal Phật Giáo Phạn bản (Thelitasansrit Buddhist Lituature of Népal) và, năm 1888 lại xuất bản cuốn: Tiểu Phẩm Bát Nhã.

Năm 1893 có Saratchandrodas tiên sinh xướng lập hội “Nghiên cứu Thánh điển Phật Giáo Ấn Độ và nhân loại học thuật” càng thúc đẩy người Ấn chú ý hơn nữa việc nghiên cứu Phật Giáo.

Sáng lập năm 1891, Hội Đại Bồ Đề là một hội rất có thế lực trong vấn đề vận động phục hưng Phật Giáo. Hội có chi hội ở Nửu Ước, Luân Đôn v.v… bố giáo khắp Âu Mỹ.

Rồi 1918 có toàn Tích Lan Phật Giáo đại hội; 1928 lại có toàn Ấn Độ Phật Giáo đại hội, tất cả đều xây dựng trên một mục đích duy nhất: “CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO.”

Nước ta lúc đầu trực tiếp ảnh hưởng Phật Giáo Ấn Độ, song sự truyền bá không được phổ cập; về sau Phật Giáo được thạnh hành là nhờ kinh điển được dịch từ Phạn văn sang tiếng Trung hoa.

Mãi đến đời Đông Hán, niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ 10 (T.L.67) vua Minh Đế nhà Đông Hán sai các ông Thái Hâm, Vương Tuân v.v… 18 người qua nước Đại Nhục Chi để rước Phật về thờ và mời được hai vị sư là Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp lan qua Trung Quốc. Vua Hán Minh Đế sắc dựng chùa Bạch Mã để thờ Phật và mời hai Ngài ở đó truyền đạo dịch kinh. Hai ngài dịch được Tứ Thập Nhị Chương kinh và 16 thứ khác.

Ở Trung Quốc, Phật Giáo được triều đình thừa nhận, có chùa, kinh bắt đầu từ đây. Thế rồi, những nhà truyền đạo từ Tây Vức tiếp nối nhau sang Trung Quốc như các Ngài: An Thế Cao, Chi Lâu Ca Sấm, Chi Diệu, Trúc Phật Sóc đều là những bậc danh Tăng. Kinh chữ Phạn dịch ra chữ Hán đã có đến 300 bộ.

Nhà Đông Hán mất, Ngụy , Thục, Ngô nổi lên (Tam Quốc), có ngài Khương Tăng Hội từ Tây Vứt qua truyền đạo, vua Ngô Tôn Quyền xin quy y. Năm thứ hai niên hiệu Gia Bình vua Ngụy Minh Đế (T.L.250) có ngài Đàm Ma Ca La từ Trung Ấn qua thi hành phép “Thập Nhơn Thọ” (Tam sư thất chứng) theo Tứ Phần Luật, Trung Quốc bắt đầu áp dụng giới luật từ đây.

Năm 258, Châu Tử Hàng ở Lạc Dương giảng kinh Bát Nhã. Nhưng lúc bấy giờ kinh điển dịch ra chưa hoàn bị, nên Châu Tử Hàng quyết chí qua Tây Vức học chữ Phạn rồi tìm nguyên bản kinh chữ Phạn để dịch lại.

Năm hiệu Vĩnh Gia thứ 4, nhà Tây Tấn (T.L. 310) ngài Phật Đồ Trừng sang thuyết pháp, nhân dân theo rất đông, trong đó có các ngài Đạo An, Pháp Hòa, Trúc Pháp Hải v.v…là những môn đồ nổi tiếng . Ngài Đạo An, Huệ Viễn phát dương tông chỉ Phật Giáo ra, đến ngài Cưu Ma La Thập mới thịnh đạt.

Đây là thời kỳ Phật Giáo Trung Quốc biến đổi lần thứ nhất. Đời nầy bắt đầu có Tam Luận và Thành Thật tông.

Đến đời Nam Bắc Triều (T.L.420-588) có ngài Bồ Đề Đạt Ma từ Thiên Trúc sang truyền Thiền tông. Ngài Chơn Đế Tam Tạng dịch Luận Đại thừa khởi tín. Lúc đó ở Trung Quốc mới đề xướng pháp môn “Chơn Như Duyên Khởi”.

Ấy là thời kỳ Phật Giáo Trung Quốc biến đổi lần thứ hai. Ngoài ra, còn có Nam Nhạc đại sư lập Thiên Thai tông, Đàm Vô Sấm dịch truyền Niết Bàn tông nữa.

Sau ách nạn Hậu Ngụy Thái Võ Đế *r (niên hiệu Thái Bình Chơn Quân thứ 7 (T.L.446) các đời vua sau cũng chấn hưng Phật Giáo. Có Ngài Lặc Na Ma Đề dịch truyền Địa Luận tông.

Đến đời Tùy, Phật Giáo ngày càng hưng thịnh, vua quan đều Quy Y Tam Bảo, Tăng đồ trứ thuật nhiều kinh luận.

Đời Đường, có quan Thái Sử Lịnh là Phó Dịch7 lần dâng sớbài bác đạo Phật, nên có hai tăng sĩ là Huệ Thừa làm Biện Chánh Luận và Minh Khái viết Quyết Đối Luận để phản bác.

*Ách vận của Phật Giáo trong ba đời vua Võ, một vua Tông. Ba Võ là: Thái Võ nhà Hậu Ngụy.Võ Đế nhà Bắc Chu. Võ Tông nhà Đường. Nhất Tông là Thế Tông Hậu Chu.

Con Cao Tổ Lý Thế Dân nối ngôi hiệu là Đường Thái Tông. Chính Ngài Huyền Trang sang Thiên Trúc cầu học vào lúc nầy. Niên hiệu Trinh Quán thứ 19 (T.L.645)ngài mới về nước. Đường Thái Tông rất tôn kính, mời Ngài ở chùa Đại Từ Ân và chùa Hoằng Phước để dịch kinh, truyền đạo. Với kinh điển của Ngài dịch, gọi là Tân Dịch phái.

Đó là thời kỳ Phật Giáo Trung Quốc biến đổi lần thứ Ba. Sau vua Cao Tổ, đến bà Võ Tắc Thiên Hoàng Đế cũng sai sứ qua nước Vu Điền (tức là Kho Tan và Kustana bây giờ) cầu kinh Hoa Nghiêm bằng chữ Phạn và mời một học gỉa chữ Phạn là Thật Xoa Nan Đà về để cùng Ngài Bồ Đề Lưu Chi tam tạng dịch kinh Hoa nghiêm 80 cuốn, gọi là Bát Thập Hoa Nghiêm. Bà Võ Tắc Thiên làm bài tựa của kinh ấy và sau nầy biến thành bài kệ khai kinh muôn đời.

Ngoài ra, còn có Ngài Nghĩa Tịnh tam tạng qua Ấn Độ, du lịch các nước và cầu kinh về dịch được 60 bộ, 230 cuốn.

Đến đây có thể nói Phật Giáo đến hồi cực thịnh. Nhưng đến niên hiệu Hội Xương năm thứ 5 (T.L. 845), đời vua Võ Tông, Phật Giáo lại bị đại ách nạn, vì nhà vua tín ngưỡng Lão Giáo.

Đến đời Ngũ Đại (Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán và Hậu Chu) Phật Giáo lại bị một ách nạn lớn gây ra bởi vua Thế Tông nhà Hậu chu.

Sau Ngũ Đại là nhà Tống, các vua Tống cũng hết sức chấn hưng, nhưng không thể như đời Đường. Nhà Tống suy, nhà Kim (Mãn Châu) sang xâm lăng, Phật Giáo vì vậy cũng suy đồi. Sau Mông Cổ lại diệt Kim, Hốt Tất Liệt diệt Nam tống lập ra nhà Nguyên.

Tuy các đời vua nhà Nguyên cũng sùng mộ Phật Giáo, nhưng sùng mộ để sùng mộ chứ không nỗ lực xương minh giáo nghĩa nên khi có Lạt Ma Giáo ở Tây Tạng truyền vào thì được triều đình vua chúa sùng thượng hơn, do đó, nên đạo Phật cố hữu bị bỏ rơi.

Nhà Nguyên suy, Chu Nguyên Chương nổi lên lập ra nhà Minh. Minh Thái Tổ lúc nhỏ đã từng làm Sa Di, nên hết sức ủng hộ Phật Giáo. Ngài lại qui định pháp tắc cho tăng lữ, đặc các Ty Tăng Can, Tăng chánh, Tăng Hội để chưởng lý Tăng đồ. Chư Tăng có chức hiệu từ đó. Đồng thời cũng có nhiều Tăng sĩ phiên dịch, trứ thuật kinh luật, nên Phật Giáo lại được trùng hưng. Có thể nói đây là thời kỳ vẻ vang của Phật Giáo.

Nhà Minh suy tàn, nhà Thanh ( Mãn Châu) thống nhất thiên hạ. Thanh Thái Tổ, Cao Tông tuy cũng ủng hộ Phật Giáo, nhưng không hết lòng. Đến đời Thánh Tổ, Thế Tông Phật Giáo càng suy tàn, chùa chiền, tăng sĩ tuy còn, nhưng ít người thấu hiểu giáo lý đạo Phật!

Cuối đời nhà Thanh, sóng văn minh Âu tây tràn vào. Thuyết bài trừ mê tín nổi lên khắp nơi, Phật Giáo càng suy vong. Vì thực ra Phật Giáo bấy giờ chỉ còn hư danh. Nói đến Phật Giáo là người ta chỉ nghĩ tới cúng bái mê tín thôi.

Về sau các văn sĩ, học gỉa mới dấy khởi phong trào nghiên cứu triết lý nhà Phật theo phương pháp khoa học và đồng tán dương qua sách báo, nhờ vậy Phật Giáo lại được quốc dân chú ý đến.

Đến đời Tôn Văn nổi lên cách mạng, xướng thuyết Tam Dân chủ nghĩa, diệt nhà Thanh, lập nên Dân Quốc. Càng ảnh hưởng văn minh dân chúng lại càng thích nghiên cứu Phật học. Nhờ vậy Phật Giáo bỗng nẩy ra nhiều tia sang mới lạ.

Năm Dân Quốc mới thành lập, Ngài Cánh Sơn cùng các Sa môn đồng chí, cư sĩ sáng lập Trung Quốc Phật Giáo Tổng Hội. Các cư sĩ ở Thượng Hải cũng lập Phật Giáo Cư Sĩ Lâm, Phật Giáo Tịnh nghiệp xã.

Về sau các Sa môn và cư sĩ lần lượt sáng lập những trường chuyên môn như: Giảng đường chùa Quán Tông ở Ninh Ba ( Chiết Giang) do Đế Nhàn pháp sư chủ giảng; ở Võ Xương (Hồ Bắc) có Phật học viện do Thái Hư Pháp Sư chủ giảng; ở Giang Tô có Hoa Nghiêm học viện; Nam Kinh có Nội học viện do Âu Dương Cánh Vô chủ giảng.

Trong các đoàn thể nghiên cứu Phật Giáo phần nhiều có tạp chí làm cơ quan hoằng dương giáo nghĩa, như: Phật Học tùng thư, Hải Triều Âm, Cư Sĩ Lâm San, Tịnh nghiệp nguyệt san, Chi Na nội học, Uy Âm, Vi Diệu Thanh, Phật Giáo Tân Văn…đều nối tiếp nhau xuất bản.

Đến khi xẩy ra nạn Trung Nhật chiến tranh, Phật Giáo cũng bị ảnh hưởng nên công việc hoằng dương cũng bị tê liệt.

Như trước đã nói, sau khi đức Phật Niết Bàn, Phật Giáo Ấn Độ chia thành 20 bộ phái. Đến lúc truyền qua Trung Hoa lại thành lập ra các Tông, song tựu trung 10 tông phái sau đây được xem là định bản:
1- Câu Xá.
2- Thành Thật.
3- Hoa Nghiêm.
4- Thiên Thai.
5- Tam Luận.
6- Pháp Tướng.
7- Thiền.
8- Tịnh Độ.
9- Luật.
10- Mật Tông.
Phật Giáo Việt Nam sau thời đại du nhập, rất chịu ảnh hưởng Phật Giáo Trung Hoa, nên kinh điển, tông phái đều do Trung Hoa truyền sang. Nhưng trong các tông phái ấy Việt nam chỉ được truyền Thiền tông là chính thức. Ngoài ra còn có Tịnh Độ Tông, Mật Tông chỉ là học thấy trong kinh sách rồi làm theo, chứ không có truyền thừa rõ rệt.

Về đời Lương Võ Đế( T.L.528) Ngài Bồ Đề Đạt Ma từ Tây Trúc qua Trung Hoa truyền pháp. Ấy là vị tổ đầu tiên của Thiền tông Trung Hoa. Ngài Huệ Khả kế thừa làm tổ thứ 2, ngài Tăng xán tổ thứ 3, ngài Đạo Tín thứ tư. Đồng thời với Đạo Tín có ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Ngài qua truyền pháp và làm tổ thứ nhất về Thiền tông Việt Nam. Ngài Tỳ Ni Đa Lưu chi truyền cho Ngài Pháp Hiền lập thành một phái Thiền tông (Việt Nam.)

Năm 820 có Ngài Vô Ngôn Thông người Trung Hoa qua truyền pháp, lập thành phái Thiền tông thứ hai.

Đời Lý Thánh Tông có Ngài Thảo Đường Thiền sư là đệ tử của Ngài Tuyết Đậu Minh Giác bên Trung Hoa thành lập phái Thảo Đường, ấy là phái Thiền tông thứ ba ở Việt Nam.

* Niên hiệu Ứng Thiên thứ 14 (1008), nhà Tiền Lê, nước ta lần đầu tiên thỉnh Đại Tạng kinh từ Trung Hoa.
* Năm 1019 Lý Thái Tổ sai sứ là Phạm Hạc và Nguyễn Đạo Thanh sang Trung Hoa thỉnh Đại Tạng kinh. Đây là lần thứ hai.

NGài Thảo Đường được vua Lý Thánh Tông phong làm Quốc sư. Vua Lý Thánh Tông đắc đạo được Ngài truyền pháp và là người đệ tử đầu tiên của phái Thảo Đường. Phái nầy truyền được năm đời, có 19 vị đắc đạo.

TRÚC LÂM YÊN TỬ (Phái Thiền thuần tuý Việt Nam )
1- Giác Hoàng Điều Ngự.
2- Pháp Loa.
3- Huyền Quang.
* Vào khoảng đời vua Lê Thánh Tông (1573-1599) ở Bắc có phái Tào Động cũng là chi nhánh của phái Bồ Đề Đạt Ma bên Trung Hoa. Phái nầy truyền vào bởi nhà sư Trung Hoa tên Tri Giáo Nhất Cú.

PHÁI NGUYÊN THIỀU Ngài Thọ Tôn Hòa Thượng, húy Nguyên Thiều truyền chánh phái Lâm Tế ở nước ta.
Như phái Thiền Tông truyền đến Ngài Nghĩa Huyền lại lập ra một nhánh gọi là Lâm Tế. Lâm Tế truyền đến đời 21 là ngài Vạn Phong thời uỷ ở chùa Thiên Đồng (Trung Hoa) lập ra bài kệ: Tổ, Đao, Giới…

TÓM TẮt: * Tỳ Ni Đa Lưu Chi là sơ tổ Thiền Tông Việt Nam. Học trò Ngài là Pháp Hiền.
* Phái Vô Ngôn Thông. Cảm Thành là đệ tử. Dòng Vô Ngôn Thông truyền được 15 đời, biết được danh hiệu 40 người.
* Phái Thảo Đường. Vua Lý Thánh Tông là đệ tử. Phái Thảo Đường truyền được năm đời, đắc đạo được 19 người.
* Phái Trúc Lâm YênTử. Vua Trần Nhân Tông v. v…
* Phái Nguyên Thiều. Ngài Nguyên Thiều là tổ truyền phái Lâm Tế đầu tiên ở miền Trung. * * * *

HAI MƯƠI TÁM VỊ TỔ THIỀN TÔNG Ở ẤN ĐỘ
1- Ca DiẾP
2- A Nan Đà
3- ThƯƠng Na Hòa Tu
4- Ưu Ba Cúc Đa
5- ĐỀ Đa Ca
6- Di Gìa Ca
7- BÀ Tu Mật
8- PhẬt Đà Nan Đề
9- Phật Đà Mật Đa
10- HiẾp Tôn Gỉa
11- Phú Na DẠ Xa
12- Mã Minh
13- Ca TỲ Ma La
14- Long ThỌ
15- Ca Na ĐỀ Bà
16- La Hầu La ĐA
17- TĂng Gìa Nan ĐỀ
18- Ca Gìa XÁ Đa
19- CƯu Má La Đa
20- Xa DẠ Đa
21- Bà Tu Bàn Đầu
22- Ma ThỦ La
23- Hạt LẶc Na
24- Sư Tử Tỷ Khưu
25- Bà XÁ Tư Đa
26- Bất NhƯ Mật Đa
27- Bát Nhã Đa La
28- Bồ DỀ ĐAt Ma.

DUY THỨC HỌC NHẬP MÔNTT. Thích Viên Thông giảng tại Đại Học Hè PG năm 2012

- Giới thiệu đại cương lịch sử hình thành phát triển Duy Thức học ở Ấn Độ và Pháp Tướng tông ở Trung Hoa.
Khái Quát Sự Vận Hành Của Tám Thức Tâm Vương
- Tám thức Tâm vương: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức, Ý thức, Mạt na thức, A lại da thức
I. Tiền ngũ thức: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân thức a) Chức năng:
Chức năng chung của tiền ngũ thức là nhận thức phân biệt, tuy nhiên đối tượng nhận thức phân biệt và chức năng nhận thức phân biệt của mỗi thức không giống nhau.
Chức năng của tiền ngũ thức tương đương với chức năng của năm cảm giác của tâm lý học hiện đại: thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác và xúc giác

1. Nhãn thức: Chức năng của nhãn thức là thấy (thị giác). Đối tượng bị nhận thức phân biệt của nhãn thức là sắc (rūpa), chỉ cho mọi hiện tượng vật chất sanh diệt biến hóa.
Sắc cảnh bị phân biệt của nhãn thức được chia làm ba loại:
a. Hiển sắc: có 12 hoặc 13 loại: xanh, vàng, đỏ, trắng, khói, mây, bụi, sương, bong, ánh sáng, sáng, tối (và hư không)
b. Hình sắc: có 8 loại hoặc 10 loại: dài, ngắn, vuông, tròn, cao, thấp, thẳng, cong, (thô, tế)
c. Biểu sắc: lấy, bỏ, đi, đứng, nằm, ngồi, cong, duổi … chỉ các động tác biểu hiện ra bên ngoài có thể thấy được.
Trong năm thức, nhãn thức rất quan trọng, hiện đại tâm lý học nói tổng lượng tiếp thu tư vấn thì 60% hoặc 70% đều do thị giác mà ra. Sắc thái nhãn thức phân biệt gồm có sắc điệu, minh độ, bảo hòa độ, ba loại thuộc tính tâm lý.

2. Nhĩ thức: Chức năng của nhĩ thức là nghe, (thính giác). Đối tượng bị phân biệt của nhĩ thức là âm thanh (vô kiến hữu đối – không thấy nhưng có thực thể)
Theo Nhập A Tỳ Đạt Ma luận: âm thanh có hai loại: âm thanh phát ra từ có chấp thọ như tiếng nói của loài hữu tình, con người và động vật như tiếng kêu, ca xướng, vỗ tay…Âm thanh phát ra từ vô chấp thọ, là những vật vô tình của tự nhiên như tiếng gió, mưa, nước chảy, sóng vỗ…
Âm thanh của thính giác có âm điệu (cao thấp), âm cường (hưởng độ), âm sắc (âm chất, tính chất đặc thù của âm thanh, như nhạc khí khác nhau thì âm thanh khác nhau).

3. Tỷ thức Chức năng phân biệt của tỷ thức là ngửi (khứu giác). Đối tượng bị phân biệt của tỷ thức là mùi hương (vô kiến hữu đố - không thấy nhưng có thực chất)
Mùi hương tách rời nguyên vật, theo gió bay đến, có thể ngửi biết nhưng mắt không thấy đồ vật.
Có ba loại hương: hương thơm, có thể nuôi dưỡng thân thể; hương hôi, làm hại thân thể; mùi hương bình đẳng không thơm không hôi.

4. Thiệt thức Chức năng phân biệt của thiệt thức là nếm (vị giác). Qua trải nghiệm việc thọ dụng, ăn, uống, nếm…. mà đối tượng phân biệt của thiệt thức là mùi vị (vô kiến hữu đối). Mùi vị gồm có sáu loại; mặn, lạc, chua, cay, ngọt, đắng.

5. Thân thức Đối tượng phân biệt của thân thức gọi là xúc. Tất cả cảm giác do thân thể tiếp xúc ngoại vật hoặc những cảm giác do thân thể có được. Bao gồm tứ đại sắc uẩn.
Luận Đại Tỳ Bà Sa phân xúc làm 11 loại: mềm mại, thô nhám, nặng, nhẹ, lạnh, đói, khát, địa, thủy, hỏa, phong.
Tâm lý học hiện đại phân thân thức làm 3 loại: phu giác (cảm giác ngoài da: mềm mại, thô nhám, nóng, lạnh….), động giác (xương gân cảm giác, nặng nhẹ, nỗ lực….) và nội quan giác: tạng phủ cảm giác, bài tiết…. (tức thiển cảm giác, thâm cảm giác và nội tạng cảm giác)
- Hiện đại tâm lý học cũng phát hiện là trong mỗi cảm giác sau khi chấm dứt lại có thể duy trì một khoảng thời gian, gọi là dư giác
- Mỗi cảm giác có thể hỗ tương tác dụng lẫn nhau, như mũi ngửi mùi thức ăn thơm thì đầu lưỡi có cảm giác vị ngon, chảy nước dãi; khi đầu đau thì có cảm giác mắt mờ, gọi đó là “thông giác” hoặc “liên giác; khi nhổ răng, nghe âm nhạc du dương dịu dàng thì không có cảm giác đau đớn. Những màu sắc như hồng, cam, vàng dẫn đến cảm giác ấm áp, gọi là noãn sắc; màu xanh, lam, tía… dẫn đến cảm giác lạnh, gọi là lãnh sắc.

Tiền ngũ thức, mỗi thức có tác dụng riêng biệt, chỉ nhận thức phân biệt cảnh tướng đối tượng của riêng mình. Cho nên gọi tiền ngũ thức là “các biệt cảnh thức”
b) Những tâm sở tương ưng với Tiền ngũ thức
Trong 51 món tâm sở, có 34 món tâm sở tương ưng với Tiền ngũ thức: (Bát thức qui củ tụng):
“Biến hành, biệt cảnh, thiện thập nhứt
Trung nhị, đại bát, tham sân si”
Nghĩa là Tiền ngũ thức tuơng ưng với:
- 5 món biến hành: xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư
- 5 món biệt cảnh: dục, thắng giải, niệm, định, huệ
- 11 món thiện tâm sở: tín, tàm, quý, vô tham, vô sân, vô si, tinh tấn, khinh an, bất phóng dật, hành xả, bất hại.
- Trong 6 món căn bản phiền não, chỉ tương ưng với 3 món tham, sân, si.
- Trong 20 món tùy phiền não, chỉ tương ưng với 10 món: vô tàm, vô quý, trạo cử, hôm trầm, bất tín, giải đải, phóng dật, thất niệm, tán loạn, bất chánh tri.

Tiền ngũ thức tuơng ưng với căn bản phiền nào, tùy phiền não và thiện tâm sở, thật ra chẳng phải từ hiện lượng của tiền ngũ thức mà sinh khởi thiện ác tâm sở. Tiền ngũ thức cùng với Ngũ câu ý thức đồng thời sinh khởi thì mới sinh khởi các hoạt động tâm lý thiện ác tâm sở.

II. Ý thức (Mano-vijñāna)
A. Tác dụng của ý thức 
Ý thức có tác dụng nhận biết phân biệt. Đối tượng phân biệt là pháp. Ý thức nương vào ý căn (Mạt na) nhận biết phân biệt các pháp.
Pháp (dharma): "nhậm trì tự tánh, quỹ sanh vật giải", nghĩa là giữ gìn tính khuôn phép mực thước qui định đặc hữu khiến cho mọi người nhận thức được; đối tượng nhận thức bao gồm tất cả sự vật cụ thể và trừu tượng.

Duy thức phân pháp làm thành 5 loại:
1. Sắc pháp: ngoài sắc, thanh, hương, vị, xúc ra, còn có 5 loại thuộc về pháp xứ:
a) Cực lược sắc: sắc rất nhỏ như vi trần
b) Cực huýnh sắc: sắc rất xa, như thấy tăm tăm mù mù
c) Thọ dẫn sắc tức vô biểu sắc: mắt không thấy được, như đắc giới, sức lực....
d) Biến kế sở khởi sắc: là sắc pháp do ý thức vọng tưởng phân biệt mà sinh ra, như ý thức duyên với 5 căn, 5 cảnh mà khởi sanh tác dụng suy tính, so lường đối với tất cả pháp hư vọng phân biệt, ngay nơi thân biến hiện ra ảnh tượng sắc pháp, như hoa đốm giữa hư không, bóng trăng trong nước, hình ảnh trong gương ... đều xếp vào loại sắc pháp này. Loại sắc pháp này bản chất của nó chỉ có đủ ảnh tượng mà không có chỗ nương gá.
e) Định quả sắc: chỉ các cảnh sắc, thanh, hương, vị, xúc do năng lực thiền định hiện ra, như người quán tưởng đến Phật thấy hình ảnh đức Phật.

2. Tâm pháp: chỉ cho tám thức: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức, Ý thức, Mạt na thức và A lại da thức

3. Tâm sở pháp: 51 món tâm sở kết hợp với tâm vương mà phát sinh ra các trạng thái hoạt động tâm lý.

4. Bất tương ưng hành pháp: gồm có 24 món, là những hành pháp trong hành uẩn không thuộc về sắc pháp, cũng không thuộc về tâm pháp và tâm sở; như đắc, mạng căn, chúng đồng phận......

5. Vô vi pháp: gồm có 6 pháp vô vi, chỉ cho Chơn như, Niết bàn... không sinh diệt, không nương vào nhân duyên mà có.
Năm loại pháp này bao quát hết tất cả đối tượng nhận thức của nhân loại.

Đối tượng của ý thức rất rộng lớn, không có nơi nào là không phải cảnh đối tượng của ý thức.Ý thức rất trọng yếu, tác dụng của ý thức rất thù thắng, (công vi thủ, tội vi tiên).

Tiền ngũ thức chỉ có thể phân biệt cảnh đối tượng của riêng mình, còn ý thức phân biệt được cảnh đối tượng của tiền ngũ thức. Tiền ngũ thức có ý thức kết hợp vào thì mới hình thành tác dụng nhận biết.

Trên thực tế, tiền ngũ thức của nhân loại hầu hết thời gian đều theo ý thức sinh khởi, cùng với ý thức hợp nhất không phân ly. Như ý thức nương vào nhãn căn mới phát sinh nhận thức, gọi là nhãn thức.

Ý thức của mỗi chúng sanh tương tục không gián đoạn, do đó chỉnh thể của tâm cũng có thể gọi là ý, nương nơi ý mà phát sinh tất cả thức, nên gọi là ý thức.

"Thức Thân Túc Luận" có phân biệt công năng của ý thức với tiền ngũ thức: nhãn thức chỉ nhận biết sắc xanh, không thể phân biệt 'đây là sắc xanh'. Ý thức nhận biết được sắc xanh, cũng nhận biết được danh xưng sắc xanh và đây là sắc xanh, cũng phân biệt "đây là tôi, đây là vật màu xanh của tôi". Như mắt thấy bên đường một hòn đất màu vàng đang lăn động, đó là nhãn thức, nhưng nhãn thức không biết được vì sao hòn đất màu vàng lăn động, nhưng trải qua ý thức quan sát, có tác dụng nhận biết, biết một cặp chó con đùa giỡn làm hòn đá lăn động, cho đến nhãn thức biết chó của ai, loại chó gì... Một đứa trẻ nhỏ ý thức chưa phát triển, khi thấy hòn đất màu vàng lăn động, không biết được vì sao, con chó của ai...
- Ý thức tương ưng với tâm sở:

Ý thức tương ưng, kết hợp, đồng thời sinh khởi cùng với tất cả 51 món tâm sở. Ý thức duyên khắp tất cả pháp, không rời ngã chấp và pháp chấp. Ý thức thuộc về ba tính: thiện, ác và vô ký.

Nói tóm, ý thức không chỉ nhận thức phân biệt tất cả hiện tượng vật chất thế gian, hiện tượng tâm lý tinh thần, hiện tượng xã hội, hiện tượng văn hóa, mà ý thức lại còn suy lường phân tích những điều chưa chắc thật có, tất cả những quan niệm do ý thức bày vẽ sáng tạo ra; không chỉ nhận thức phân biệt sự vật cụ thể, mà còn nhận thức phân biệt những khái niệm trừu tượng, con số, phù hiệu, quan niệm ... không chỉ phân biệt hiện tại mà còn những sự việc quá khứ và vị lai.

Ý thức có chức năng trọng yếu, không chỉ phân biệt tất cả cảnh đối tượng bên ngoài mà còn phân biệt tự thân tâm thức bên trong; không chỉ nhận biết những hoạt động tâm ý hiển lộ bên ngoài dễ thấy mà còn nhận biết những tâm thức ẩn mật sâu thẳm bên trong; không chỉ nhận thức những pháp hữu vi sinh diệt mà còn nhận thức được đệ tứ thiền, các pháp vô vi, chơn như, niết bàn mà tu hành nhập định, đạt được trí tuệ siêu việt, như thật tri kiến tự tâm, cho đến đạt được sự giải thoát. Ý thức không chỉ có tác dụng phân biệt nhận biết để hình thành sự nhận thức, còn tiến triển lên sự tư duy, tưởng tượng, sự quyết đoán....

"Thành Duy Thức Luận" nói: Đệ lục ý thức thường hay tư duy hai mặt trong ngoài, không nhờ nhiều duyên, ý thức luôn hiện khởi, chỉ trừ 5 trường hợp ý thức không có mặt, thời gian ngưng hoạt động thì ít, thời gian vận hành thì nhiều.

Ý thức thường hay tư duy, phân biệt, suy lường, hướng ngoại phân biệt ngoại cảnh, hướng nội phân biệt tự tâm. Tác dụng phân biệt của ý thức không cần nhiều điều kiện.
5 trường hợp ý thức không có mặt: Vô tưởng thiên, Vô tưởng định, Diệt tận định, khi ngũ say không mộng, lúc bất tỉnh; Ngoài ra ý thức thường vận hành, thời gian ngừng nghỉ rất ngắn.

B. Trạng thái vận hành của ý thức Công năng của ý thức rất thù thắng, trạng thái vận hành gồm có 5 loại:
a) Minh liễu ý thức: Nghĩa là ý thức nhận biết phân biệt sự vật rõ ràng. Cũng gọi là Ngũ câu ý thức, nghĩa là ý thức cùng với tiền ngũ thức đồng thời sinh khởi nhận thức phân biệt cảnh vật hiện tượng.
Như mắt thấy hoa hồng, nhãn thức nhận biết màu sắc hồng (hiển sắc) và hình dáng cành hoa (hình sắc). Chỉ có thế thôi, không thể biết vật bị thấy trước mắt là gì, chỉ khi nào có ý thức đồng thời thì đối với vật bị thấy mới tiến hành phân tích biện giải, mới nhận biết, đây là hoa hồng. Cái nhận biết này gọi là Ngũ câu ý thức.

b) Độc đầu ý thức: Không chỉ nương tựa năm thức trước mới nhận biết ngoại cảnh, ý thức còn tự sinh khởi một mình, còn gọi là bất câu ý thức.
Có ba loại: tán vị ý thức, định trung ý thức, mộng trung ý thức
- Tán vị ý thức là chỉ trạng thái ý thức không liên quan đến năm thức trước mà tự một mình sinh khởi sự tư duy, suy nghĩ, như nhớ nghĩ lại chuyện quá khứ, tưởng tượng vị lai, ngồi tại nhà mà nghỉ tưởng đến công tác ở hãng xưởng…
- Mộng trung ý thức: chỉ cho trạng thái ý thức hoạt động một mình ở trong giấc mộng, như ở trong giấc mộng cùng với người đánh nhau, mồ hôi ướt cả áo….
- Định trung ý thức: chỉ trạng thái tu tập thiền định tiến sâu vào chánh định, tâm chuyên nhất không tán loạn, ý thức trong suốt vắng lặng. Ý thức ở trong định duyên vào lý và sự trong định cảnh. Lý là lý vô thường, vô ngã…. sự là chỉ cho cực lược sắc, cực huýnh sắc và định tự tại sinh ra các cảnh sắc, như niệm Phật tam muội, trong định tâm sáng suốt, ý thức thấy đức Phật A Di Đà và có năng lực thần thông biết được sự việc quá khứ và vị lai…. (đây là trạng thái siêu cảm tri giác của siêu tâm lý học (parapsychology) nghiên cứu.)

c) Cuồng loạn ý thức: Chỉ cho ý thức hoạt động trong trạng thái mất bình thường, gồm có ba trạng thái
- Say, say rượu là trạng thái ý thức mất bình thường, không hoàn toàn tự chủ và kiểm soát được; khi uống thuốc quá liều, sử dụng những loại thuốc kích thích, ma túy….thì ý thức cũng thuộc vào trạng thái này.
-Cuồng: trạng thái ý thức bệnh hoạn, tinh thần phân liệt, mắc bệnh tâm thần…..
-Huyễn, huyễn giác: như bệnh sốt nhiệt độ cao, nhìn thấy màu xanh thành màu hồng…..

[Ngoài ra còn có: Do tha dẫn phát ý thức (ý thức phát khởi do năng lực bên ngoài hướng dẫn): ý thức hoạt động trong trạng thái do bị thôi miên, bị chú thuật, thần thông. Lâm chung ý thức: là ý thức khi người sắp lâm chung, Phật dạy ý thức khi sắp lâm chung với các loại ý thức lúc bình thường không giống nhau, đây là loại dị thục thức, quả báo đã chín mùi, tự nhiên sinh khởi, không tự chủ được]

C. Ý thức là then chốt của sự nhiễm tịnh, mê ngộ 
Ý thức có công năng đặc biệt thù thắng. Trên thực tế, ý thức là chủ nhân quyết định mọi tâm lý sai khác của chúng sanh. Sự khác biệt giữa động vật cao đẳng và hạ đẳng, giữa người trí và người ngu, chủ yếu căn cứ vào trình độ tiến triển của ý thức. Phật giáo nhấn mạnh ý thức là then chốt của sự mê ngộ, nhiễm tịnh. Ý thức bị nhiễm ô sinh khởi phiền não, là cội gốc sinh tử; Ý thức cũng là nền tảng sinh khởi trí huệ tịnh hóa tự tâm, nỗ lực tu tập thanh tịnh hóa ý thức.

Kinh Đại Thừa Nhập Lăng Già có bài kệ về ý thức:
"Như biển cả bình lặng, sóng không còn sinh khởi

Cũng vậy ý thức diệt, các loại thức không sinh"

Giống như sóng biển do gió thổi mới có, tâm lý hoạt động sinh khởi phiền não, dẫn dắt thọ quả khổ đau cũng đều ý thức phân biệt, hoạt động kết hợp tương ưng với "tư tâm sở" mà có. Chính do ý thức hoạt động phân biệt mà hình thành đệ thất thức Mạt na chấp ngã, cũng chính do ý thức hoạt động tạo thành chủng tử tích lũy trong A lại da thức mà biểu hiện sự tạp nhiễm. Cho nên nếu đình chỉ sự hoạt động nhiễm ô của ý thức thì sự hoạt động nhiễm ô của Tiền ngũ thức, đệ thất thức, đệ bát thức liền tự nhiên đình chỉ, giống như gió ngừng thì sóng lặng, hiển hiện ra một cảnh giới tịch tịnh vô sinh vô diệt.

Kinh Đại Thừa Nhập Lăng Già cũng nói:
"Ý thức nếu chuyển hóa, tâm không còn nhiễm ô
Ta nói tâm là Phật, biết rõ tất cả pháp"

Đem tính nhiễm ô của ý thức hoàn toàn chuyển hóa thanh tịnh, tâm liền không còn phiền não ô trược, ý thức chuyển hóa thành trí tuệ như thật sáng suốt, thành Diệu Quang Sát Trí. Tâm chuyển hóa hoàn toàn thanh tịnh này là tâm Phật. Chính vì ý thức là then cốt của sự tu tập chuyển hóa phiền não sai lạc, đức Phật dạy trong Bát Chánh Đạo, lấy chánh tri kiến đứng đầu.

Bộ Luận Du Già Sư Địa cũng nói, trong các thức chỉ có ý thức mới đầy đủ chức năng ly dục, tư duy uyên thâm, là công cụ tu như thật quán, chứng chơn lý, quán triệt tục trí và chơn trí, các thức khác không có chức năng nầy. Khi ý thức chuyển thành Diệu quan sát trí, Mạt na thức cũng theo đó chuyển thành Bình đẳng tánh trí.

III. Đệ Thất Thức Mạt Na
1. Chức năng tác dụng 

Mạt na (Manas), nghĩa là tư lương; Kinh A Hàm dịch là ý, là tư lương (tư duy so lường).
Kinh Nhập Lăng Già nói: bản tánh của thức nầy là tư duy suy lường nên gọi là ý.
Duy Thức Tam Thập Tụng nói thức Mạt na lấy tư lương làm tánh tướng (tư lương vi tánh tướng), nghĩa là tư duy suy lường là tự tánh, là bản chất của thức Mạt na.
Luận Thành Duy Thức giải thích: tư là suy nghĩ, lượng là đo lường; cũng nói thức Mạt na có bản chất là thường hằng suy nghĩ suy xét, tính toán, đo lường không bao giờ gián đoạn (hằng thẩm tư lương vi tánh tướng). Tính thường hằng suy nghĩ, tính toán, đo lường của thức Mạt na siêu việt hơn các thức khác; Đệ bát thức A lại da tuy cũng có tính thường hằng liên tục (hằng) nhưng không có suy xét đo lường (thẩm); Đệ lục ý thức tuy có tính suy nghĩ, do lường (thẩm) nhưng có lúc bị gián đoạn chẳng thường hằng (hằng); Tiền ngũ thức đã không phân biệt mà lại gián đoạn, cho nên chẳng có tính thường hằng và tính tư lương; duy chỉ có thức Mạt na mới có đầy đủ chức năng thường hằng suy xét đo lường tính toán (hằng thẩm tư lương).

Luận Du Già Sư Địa giải thích: thức Mạt na ở trong những trạng thái như ngủ say, hôn mê..., nhập vào Định vô tưởng, hoặc trạng thái vô tâm (vô ý thức), cũng không có dừng nghỉ sự tư duy suy xét đo lường, luôn cùng với thức A lại da đồng thời vận hành.

Thức Mạt na thuộc về tính hữu phú vô ký (không thiện không ác); không cần ý thức phân biệt, thức Mạt na vẫn ở chỗ thâm sâu vi tế, tự nhiên vận hành.

Vì thức Mạt na có tính thường hằng tư duy suy lường nên nó làm chỗ nương tựa, nơi cội gốc cho Đệ lục ý thức sinh khởi tác dụng phân biệt. Do vậy Mạt na thức cũng gọi là ý căn, ý xứ, ý giới...

Mạt na thức tuy lấy tư lương làm tánh tướng nhưng sự tư lương của thức Mạt na khác với sự tư lương suy xét của Ý thức. Sự tư lương của Mạt na yếu kém hơn sự tư lương của Ý thức rất nhiều. Mạt na không thể hướng ra bên ngoài hoạt động tư duy, suy xét... cũng không thể hướng ra bên ngoài phân biệt ngoại cảnh, cũng không thể phân biệt tự thân sáu thức; Mạt na chỉ hướng về nội tại, tư duy về A lại da, nó luôn duyên vào thức A lại da làm cảnh giới.

2. Tính nhiễm ô của thức Mạt na Mạt na thức luôn chấp tự ngã bên trong và cùng với bốn loại phiền não tương ưng với nhau: ngã kiến, ngã mạn, ngã ái, ngã si. Thức nầy liên kết chặt chẽ với ý thức tự ngã sâu thẳm bên trong.

Luận Du Già Sư Địa nói: “Mạt na gọi là ý, trong tất cả thời gian luôn chấp ngã, ngã sở và ngã mạn … tư lương là tánh tướng”.

Nghĩa là Mạt na thức thường tương ưng với bốn loại phiền não mà tự nhiên sinh khởi, không có lúc nào ngừng nghỉ; thức nầy cũng cùng với các loại tâm sở thiện, ác và vô ký thường đồng lúc vận hành sinh khởi.

Bốn loại phiền não là: Ngã kiến, ngã mạn, ngã ái, ngã si.
- Ngã kiến: nghĩa là chấp trước thân tâm và những gì thuộc về ta đều có tự ngã thường hằng. Đây là loại tự ngã cảm giác sâu thẳm bên trong.
-Ngã mạn: nghĩa là tự kiêu tự đại, tự ngã cống cao.
- Ngã ái: nghĩa là tham ái những gì mà mình chấp trước là ngã. Đây là một loại bản năng ý thức bảo vệ tự ngã.
- Ngã si: nghĩa là không như thật nhận biết sáng suốt đối với các pháp vô ngã. Ngã si không cùng với tham, sân … đồng sinh khởi, đơn độc một mình căn bản vô minh sinh khởi, gọi là Độc hành vô minh.

Mạt na nhiễm ô thường hằng cùng với bốn loại phiền não nầy sinh khởi. Đây chỉ cho tính bản năng ý thức tự ngã thâm căn cố đế sâu thẳm bên trong nội tâm. Thức Mạt na luôn có bản năng tự vệ, ý chí sinh tồn. Vì vậy, thức nầy hướng ra ngoài cùng với sáu thức liên hệ chặt chẽ, làm cơ sở cho sáu thức hoạt động sinh khởi, gọi là ý căn; hướng vào bên trong thì thức nầy liên kết chặt chẽ với thức A lại da, tạo thành tác dụng nắm giữ căn thân, chấp thức A lại da làm ngã. Thức Mạt na thường hằng suy nghĩ đo lường về cảnh bị duyên, lấy thức A lại da làm cảnh và chấp làm tự ngã. (Chấp kiến phần của A lại da là ngã và chấp tướng phần của A lại da là ngã sở)

Kinh Giải Thâm Mật tỷ dụ thức Mạt na chấp thức A lại da làm ngã như cục đá kim châm hút các loại sắt, sản sinh và phát triển chấp ngã và ngã sở, làm cho con người luôn lấy tự ngã là trọng tâm; giống như con rắn hai đầu, hướng ra ngoài cùng với đệ lục ý thức hoạt động, hướng bên trong kết hợp với đệ bát thức A lại da hoạt động.

Thức Mạt na thường hằng chấp ngã, ngã ái không gián đoạn, do đó làm cho chúng sanh chấp tự ngã và thế giới, là đầu mối nhị nguyên phân cách giữa mình và người.

Mặc dù Mạt na thức luôn chấp ngã, được xem là căn bản vô minh, là cội gốc của tất cả phiền não nhưng tính chất tự thân của thức Mạt na chẳng phải là ác. Tính chất luân lý của thức Mạt na thuộc về "hữu phú vô ký".

Hữu phú nghĩa là nó sản sinh ngã chấp, dẫn khởi phiền não, ngăn che Phật pháp.

Vô ký nghĩa là tính chất của thức Mạt na là trung tánh, chẳng thiện chẳng ác. Bởi vì, Mạt na thức chấp ngã, sinh khởi phiền não khiến cho con người làm ác tổn người lợi mình, nhưng chẳng phải trực tiếp sinh khởi mà phải nương vào Đệ lục ý thức sinh khởi phiền não mới tạo nghiệp ác; cũng chí vì sự chấp ngã của Mạt na thức kiến con người vì lợi ích tự ngã mà làm thiện, vì mình mà khởi thiện tâm, tu đức hành thiện. Đương nhiên thức Mạt na không trực tiếp làm điều thiện, làm việc thiện phải nhờ Đệ lục ý thức khởi lên thiện tâm sở mới làm việc thiện được.

3. Những tâm sơ tương ưng với thức Mạt na Bát Thức Qui Củ Tụng giải thích, Mạt na thức tương ưng với những tâm sở, gồm có 18 tâm sở:
“Bát đại, biến hành biệt cảnh huệ

Tham si ngã kiến mạn tương tùy”.
(Tám món đại tùy phiền não, năm món biến hành, huệ tâm sở trong năm nóm biệt cảnh, và tham, si, ngã kiến, ngã mạn).
- Bốn phiền não: tham, si, ngã kiến và ngã mạn tức là ngã ái, ngã si, ngã kiến, ngã mạn.
- Năm món biến hành: xúc, tác ý, thọ, tương, tư
- Huệ tâm sở trong năm món Biệt Cảnh: dục, thắng giải, niệm, định, huệ
- Tám món đại tùy phiền não: Bất tín, hôm trầm, trạo cử, phóng dật, giải đãi, thất niệm, bất chánh tri.

4. Mạt na thức là chỗ nương tựa của nhiễm tịnh Nhiễm ô Mạt na là then chốt khiến tâm bị ràng buột và đạt được sự giải thoát. Vì vậy thức Mạt na cũng gọi là nhiễm tịnh y.

Tính câu sanh ngã chấp của thức Mạt na, tức ngã si, là cội gốc của tất cả phiền não.
Phật dạy: Khi tâm khởi thiện, ác và vô ký, thường hằng chấp ngã.
Chúng sanh khởi tâm, dù là thiện, ác hay vô ký đều lấy tâm chấp ngã của Mạt na làm cơ sở, lấy tự ngã làm trọng tâm. Khi làm thiện cũng khó đạt được vô phân biệt; người học phật cũng cầu Phật gia hộ mình, mình cầu giải thoát thành Phật... bất cứ động thái nào cũng có cái ngã tiềm ẩn vi tế bên trong.
Chính cái ngã nầy làm cho chúng sanh mê lầm tạo nghiệp, trầm luân sanh tử, không giải thoát được.

Đoạn dứt nhiễm ô phiền não là chẳng phải tiêu diệt thức Mạt na, mà chỉ đoạn trừ phần nhiễm ô của thức Mạt na luôn chấp A lại da thức là ngã thường hằng. Khi hàng Bồ tát kiến đạo trở lên, trí quán pháp không có mặt thì công năng hằng thẩm tư lương của Mạt na chuyển hóa làm "Bình đẳng tánh trí", là trí huệ trực giác vô ý thức thấy các pháp bình đẳng, không có mình người, cao thấp .....

Khi tu thành Phật, tính hằng thẩm tư lương của Mạt na cũng không có đoạn diệt, mà đem sự suy xét đo lường có ngã chuyển hóa thành sự tư duy suy xét về vô ngã mà thôi.

Nhiễm ô Mạt na là mạng căn của chúng sanh, kiên cố vững chắc khó phá trừ. Nếu không đoạn diệt Mạt na nhiễm ô thì sanh tử không dứt.

Muốn chuyển hóa Mạt na nhiễm ô thì phải bắt đầu từ Ý thức, nhờ sức tư duy đặc biệt thù thắng của Ý thức. Nhiễm ô Mạt na tuy vi tế khó thấy, khó đoạn trừ, nhưng vì sự tư lương của nó yếu kém, nó thường cùng với Ý thức kết hợp đồng thời sinh khởi. Vì vậy dựa vào Ý thức tu quán vô ngã thì đồng lúc đoạn trừ nhiễm ô Mạt na.

Kinh nói: Mạt na như gươm bén, không thể tự hại mình. (Ý như đao kiếm phong, bất năng tự hại tự)

Nghĩa là Mạt na không thể nương tựa vào Mạt na để tự đoạn trừ sự nhiễm ô, cần phải nương tựa vào tư duy thiền quán của Ý thức mới chuyển hóa được.

IV. Đệ Bát Thức A Lại Da
1. Ý nghĩa và danh xưng của thức A lại da 
A lại da (Ālaya) cũng dịch là A lê da, A la da... nguyên ý của tiếng phạn là kho chứa, tích chứa. Ngài Chơn Đế dịch là Vô một thức; Ngài Huyền Trang dịch là Tàng thức.

A lại da thức có nhiều danh xưng khác nhau. - Đệ bát thức: tính theo thứ tự các thức.
- Căn bản thức: là cội gốc của các thức, giống như đại địa là nền tảng cho muôn vật phát sinh.
- Trạch thức: là nhà ở của chúng sanh, ngôi nhà tinh thần.
- Nhất thiết chủng tử thức: là tâm thức tích chứa hạt giống của tất cả pháp.
- Dị thục thức: cũng gọi là Quả báo thức, nghĩa là tạo tác và thọ nhận quả báo chín mùi ở đời vị lai.
- Sơ sát na thức: là tâm thức ở trong sát na đầu tiên hình thành sinh mạng chúng sanh.
- Thức chủ: là chủ thể của các thức.
- Trượng phu thức: nghĩa là năng lực của thức nầy rất mạnh.
- Vô một thức: nghĩa là thức nầy quán xuyến quá khứ, hiện tại, vị lai, không có lúc nào ngừng nghỉ.

2. Công năng tích chứa của thức A lại da 
Công năng chủ yếu của A lại da thức, theo Luận Nhiếp Đại Thừa, là nhiếp tàng.

Nhiếp nghĩa là thống nhiếp, bao quát. Vì thức nầy không chỉ thống nhiếp tàng trử tất cả chủng tử mà còn thống nhiếp luôn bảy thức trước, thống nhiếp toàn thể tâm thức. Tất cả hoạt động của các thức đều nương vào thức A lại da mà sinh khởi hiện hạnh.

Thức A lại da lại thống nhiếp thân thể (căn thân) của chúng sanh và thế giới chúng sanh nương ở (khí thế giới). Vì tác dụng chấp thọ của thức nầy làm cho tất cả sắc căn tồn tại không hư mất, khi thọ mạng hết chuyển qua đời sau, sau khi chết thức nầy dẫn dắt đi đầu thai.

Tàng: nghĩa là tích chứa. Thức A lại da được gọi là Tàng thức, nghĩa là công năng chính yếu của thức nầy là chứa giữ tất cả chủng tử. Thức nầy giống như một nhà kho rộng lớn có chứa hết tất cả mọi thứ.

- Tất cả hoạt động tâm lý, hành vi ngôn ngữ... hình thành chủng tử, tạo thành kết quả đều cất chứa trong thức A lại da. Thức nầy là nhân tái sinh khởi hoạt động tâm lý và nghiệp báo. Nhiều kiếp tích chứa làm cho A lại da thức của chúng sanh tích chứa tập khí cao như núi. (Tập khí = chủng tử)

Tàng, Thành Duy Thức Luận giải thích gồm có ba nghĩa: năng tàng, sở tàng, ngã ái chấp tàng.

- Năng tàng: nghĩa thức nầy có đây đủ chức năng cất chứa, giữ gìn tất cả chủng tử các pháp làm cho không mất. Đây là chức năng chính yếu của thức nầy, nên gọi là Nhất thiết chủng thức. (Đây thuộc về nhân tướng)

- Sở tàng: nghĩa là tác dụng tích chứa của thức nầy làm cho chúng sanh luân hồi sinh tử, đời sau thọ nhận quả báo, là cội gốc làm cho sinh mạng chúng sanh liên tục không gián đoạn, cho nên gọi là Dị thục thức. (Đây là quả do thức nầy sinh ra, thuộc về quả tướng)

- Ngã ái chấp tàng: nghĩa là thức nầy bị thức Mạt na chấp (kiến phần) làm tự ngã. (Đây là tính chất chủ yếu của thức nầy, tức là tự tướng).

3. Những tâm sở tương ưng với A lại da

A lại da thức tương ưng với 5 món tâm sở biến hành: Xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư.

Tác dụng phân biệt của A lại da thức thuộc về "hiện lượng", là một loại hiện lượng phân biệt xử lý rất nhau, vận tốc xử lý cực kỳ nhau.

4. Hành tướng của thức A lại da

Hành tướng là chỉ cho trạng thái hoạt động, đặc tính, tính chất. Đặc điểm của A lại da thức gồm có những điểm sau:

a) Ẩn mật vi tế khó nhận biết: thức nầy ẩn sâu trong nội tâm, vi tế khó thấy biết. Kinh Giải Thâm Mật giải thích là thức nầy giữ gìn xử lý chủng tử của tất cả thức, thường hằng hoạt động không gián đoạn ở tận trong tâm thức, khí thế rất mạnh giống sóng biển, ngày đêm vận hành không ngừng nghỉ.

Thấy biết sự vi tế của Tàng thức thì chỉ có Phật và hàng bồ tát kiến đạo trở lên, ngoài ra hàng phàm phu, thanh văn, duyên giác không biết được.

b) Chẳng có chẳng không, chẳng thường chẳng một: Thức nầy giống như hư không, chẳng có chẳng không. Chẳng có nghĩa là không phải hình tượng vật chất có thể thấy nghe hiểu biết. Chẳng không nghĩa là tác dụng của thức nầy hiển nhiên là có.

Thức nầy đối với cảnh sở duyên niệm niệm sinh diệt, lưu chuyển từng sát na, chẳng phải thường chẳng phải một, mà là một dòng tâm thức sinh diệt liên tục.

c) Thông suốt cả ba đời, chỉ có tính thường hằng chuyển biến
Chức năng phân biệt của A lại da thức từ khi con người mới sinh cho đến lúc lâm chung, luôn liên tục chuyển biến không một sát na ngừng nghỉ. Nội dung cất chứa có khác nhưng chức năng thống nhiếp cất giữ từ lúc ra đời cho đến lúc chết không có sai khác, công việc tiếp thu, xử lý chủng tử không gián đoạn. Sự vận hành của thức A lại da không chỉ quán triệt một đời người, mà còn quán triệt cả ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai, quán triệt hoàn toàn quá triệt luân hồi, không một giây lát dừng nghỉ.

Ở những trạng thái ngủ say, hôm mê (chết giấc), bị ma túy, nhập vào định vô tưởng và diệt tận định...sự vận hành của 7 thức không còn, nhưng thức A lại da vẫn có mặt và khởi lên tác dụng giữ gìn sự sinh hoạt của thân sinh lý.

Thức nầy khi nào rời khỏi thân thì mới cho là chết.

d) Tính thuộc vô phú vô ký: Vô phú: nghĩa là không ngăn che Phật đạo, tính thuộc vô vi
Vô kí: nghĩa chẳng phải thiện chẳng phải ác, thuộc trung tính.

5. A lại da thức là cội gốc của sự nhiễm và tịnh 
A lại da thức là cội gốc làm cho chúng sanh bị phiền não các pháp hữu lậu ô nhiễm, bởi vì thức nầy hay sinh khởi thân thể, các giác quan và bảy thức trước, là nền tảng làm cho chúng sanh ra đời và tồn tại; cũng là nền tảng sinh khởi vũ trụ thế giới đất nước núi sông.... (khí thế giới). Chúng sanh bị vô minh che lấp nên không nhận biết chơn tướng của thức A lại da biến hiện thân thể và thế giới, bị ô nhiễm Mạt na sai sử, lấy tự ngã làm trung tâm mà sinh khởi tâm thiện ác hữu lậu, tạo nghiệp thiện ác hữu lậu. Qua tác dụng cất giữ của thức A lại da, tự nhiên tạo thành tam giới lục đạo, thọ các loại quả khổ đau.

Tuy nhiên A lại da thức cũng là nền tảng của tất cả pháp thanh tịnh, tâm thanh tịnh, bồ đề, và quả Phật; giống như lấy lửa đốt cây, lửa nầy của đốt được cây khác, thông qua tu hành thiền quán lâu dài, lần lần đốt hết củi phiền não thì liền chấm dứt vòng luân hồi. Chúng sanh lấy A lại da thức cất giữ những chủng tử vô lậu làm nhân, phát tâm tu hành, mong cầu tịnh hóa tự tâm, giải thoát các khổ đau; dùng trí tuệ như thật làm các nghiệp vô lậu. Do A lại da thức chứa giữ, tăng trưởng chủng tử vô lậu, cho đến tâm hoàn thanh tịnh, chuyển thức thành trí, A lại da thức thành Đại viên cảnh trí, thành quả vị Phật.

THẬP NHỊ NHÂN DUYÊNTT. Thích Quảng Long giảng tại Đại Học Hè PG năm 2012

A. Dẫn nhập: 
Con người từ đâu đến và chết đi về đâu là một vấn đề được đặt ra từ thuở nhân loại bắt đầu có ý thức về vũ trụ và con người. Và vì thế các tôn giáo đã hình thành để giải quyết những bế tắc thuộc tư duy hữu ngã. Vạn vật hữu tình, vô tình hay nhân sinh quan và vũ trụ quan được hình thành do đâu xưa nay rất nhiều lý thuyết, triết học, tôn giáo đều trả lời. Tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng một cách thỏa mãn, rõ ràng cho tri thức nhân loại. Triết học và các tôn giáo vẫn còn kẹt giữa tuy duy thần ngã, nhất thần, đa thần, vô thần v..v… đưa ra những lý giải khác nhau.Trước những bế tắc đó, Đức Phật giới thiệu nguyên lý Duyên Khởi nhằm hướng dẫn con người tư duy quán chiếu về thực tính của vạn pháp. Để tìm hiểu về thế giới quan và nhân sinh quan của Phật giáo xuyên qua giáo lý Duyên khởi (Paticcasamuppda) hay Thập Nhị Nhân Duyên như sau:

B. Nội dung
1. Thế nào là duyên khởi ? 

Kinh Tiểu Bộ, Đức Phật dạy: “Do cái này mặt, cái kia có mặt; do cái này không có mặt, cái kia không có mặt. Do cái này sinh, cái kia sinh; do cái này diệt, cái kia diệt.” Nguyên lý này trình bày một cách khái quát do chính Đức Phật tư duy dưới cội Bồ Đề và đã nói ra giáo lý này nhằm chỉ cho mọi hiện hữu trong thế giới hiện tượng kể cả khí thế gian hay còn gọi là vô tình. Đối với con người thì Đức Phật dạy về giáo lý mười hai nhân duyên, tức là nhân duyên khởi. Chi phần trước vừa là nhân mà cũng vừa là duyên cho chi phần sau tạo ra chuỗi móc xích không có đầu mối và chung cuộc. Nhân là yếu tố phát sinh trong đó điều kiện hỗ trợ là duyên tác động phát khởi gọi là nhân duyên khởi. Giáo lý Thập nhị nhân duyên là mối tương hệ phức tạp vi tế giải thích sự hiện hữu hình thành của con người hay toàn bộ khổ uẩn tập khởi.

2. Mười hai chi phần nhân duyên Kinh Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikaya) tập II Thiên Nhân Duyên giải thích đại để 12 chi phần nhân duyên như sau:
1. Vô minh (Avijja): không rõ biết khổ, không rõ biết khổ tập, không rõ biết khổ diệt, không rõ biết con đường đưa đến khổ diệt.
2. Hành (Sankhara): thân hành, khẩu hành, ý hành
3. Thức (Vinnana): nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức.
4. Danh sắc (Nama-Rupa): thọ, tưởng, tư, xúc, tác ý gọi là danh, bốn đại chủng tạo ra gọi là sắc.
5. Sáu xứ (Chabbithana): Gồm sáu nội xứ nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý và sáu ngoại xứ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
6. Xúc (Phasa): nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc, ý xúc.
7. Thọ (Vedana): có sáu thọ thân này. Thọ do nhãn xúc sanh, thọ do nhĩ xúc sanh, thọ do tỷ xúc sanh, thọ do thiệt xúc sanh, thọ do thân xúc sanh, thọ do ý xúc sanh.
8. Ái (Tanha): có sáu ái thân này, sắc ái , thanh ái, hương ái, vị ái, xúc ái, pháp ái.
9. Thủ (Upadana): có 4 thủ, dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngã luận thủ.
10. Hữu (Bhava): có 3 hữu, dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu.
11. Sanh (Jati): Cái gì thuộc chúng sanh này hay chúng sanh khác, thuộc bộ loại chúng sanh này hay chúng sanh khác. Sự xuất hiện các uẩn, sự thành tựu các xứ.
12. Lão, Tử (Jaramrana ): Cái gì thuộc chúng sanh này hay chúng sanh khác, thuộc bộ loại chúng sanh này hay thuộc bộ loại chúng sanh khác bị già yếu,suy nhược, răng rụng, tóc bạc, da nhăn, tuổi thọ tàn lụn, các căn chin muồi gọi là già. Sự từ bỏ, hủy hoại, tiêu mất, tử vong, các uẩn hư hoại, thân thể vứt bỏ gọi là chết.

C. Giải thích về ý nghĩa 12 nhân duyên Tất cả mọi sự vật hiện tượng theo kinh Hoa Nghiêm là trùng trùng duyên khởi. Vì vậy không có vật thể nào tự nó tồn tại với chính nó. Vạn pháp trong vũ trụ tương quan tương duyên cùng có mặt với nguyên lý nhứt tức nhất thiết, nhất thiết tức nhứt. Giáo lý duyên khởi nhằm hiển bày mọi hiện hữu vô ngã, ngũ uẩn là vô ngã. Nguồn gốc khổ đau của chúng sinh là do chấp ngã và ngã sở hữu. Từ đó vòng luân hồi sanh tử tiếp diễn trong ba cõi sáu đường. Kinh Tiểu Bộ Đức Phật dạy: “Ai thấy duyên khởi là thấy Pháp. Ai thấy Pháp là thấy Phật. Để hiểu rõ hơn về 12 chi phần nhân duyên, lần lượt giải thích theo một khía cạnh khác.

1. Vô minh: là tên khác của ngu si, không sáng suốt, hiểu rõ các pháp tự tánh là không lại chấp có. Các pháp và ngũ uẩn vô ngã lại chấp là ngã và ngã sở. Vô minh có nghĩa là vô tại, vô bất tại. không có ở đâu nhưng không đâu không có, trừ phi giác ngộ hoàn toàn mới chấm dứt được vô minh. Vô minh cũng không phải là nhân tố đầu tiên thúc đẩy con người thọ sanh trong vòng sanh tử.

2. Hành: chuyển biến, đổi thay, vận động sanh diệt liên tục thuật ngữ gọi là hành pháp. Hành pháp lại vô thường không lúc nào đứng yên. Sanh diệt liên tục trong từng sát na nên khó nhận ra.

3. Thức: Không phải là cái thức thông thường phân biệt dài ngắn vuông tròn, hơn thua phải quấy. Thức nói đủ gồm những thuật ngữ là nhứt thiết chủng thức, A lại da thức còn gọi là tàng thức, dị thục thức. Nhứt thiết chủng thức chứa đựng các chủng tử của vạn pháp và duyên sinh ra bảy chất liệu địa thủy hỏa phong không kiến thức.

4. Danh sắc: Giai đoạn đứa bé còn trong thai tạng nhưng nếu không có thức thì danh sắc không thể hình thành. Giai đoạn này là phôi thai và thức nghiệp từ quá khứ nên duyên hợp đủ 3 yếu tố là tinh cha huyết mẹ và thức nghiệp.

5. Lục nhập: còn gọi là lục cảnh lý do sáu căn chưa tiếp xúc với sáu trần. Thai nhi chịu ảnh hưởng trực tiếp từ người mẹ. Giai đoạn này chưa thể gọi là lục trần.

6. Xúc: Từ khi đứa bé được sinh ra đến 1, 2 tuổi trong thời gian còn bú mớm, chưa có sự phân biệt tốt xấu, hơn thua phải quấy v..v…Trong giai đoạn này gọi là anh nhi hạnh, tâm chưa bị nhiễm ô bởi lục căn lục trần.

7. Thọ: Giai đoạn đứa bé từ 3 đến 5 tuổi là biết cảm thọ từ nghiệp quá khứ nhưng chưa cảm thọ lạc khổ trong hiện tại mà thường là trong trạng thái vô ký.

8. Ái: Từ 13 tuổi trở đi con người biểu hiện phần ái nhiễm về ngũ dục lạc ngày càng nhiều theo chiều hướng cực đại. Từ sự ái nhiễm trần cảnh mà con người bị sai sử vào những chi phần trong vòng sanh tử.

9. Thủ: Khi ái nhiễm trói buộc thì khuynh hướng bảo thủ, chấp chặt chiếm hữu chắc chắn khó tránh khỏi.

10. Hữu: Không có nghĩa là sự có mặt của một hữu tình hiện hữu mà là đối với 3 cõi dục, sắc và vô sắc, hữu hiện diện luân chuyển trong các cảnh giới này.

11. Sanh: Từ hữu duyên đến sanh và sanh không có nghĩa là mới sanh ra mà là sự hiện hữu của ngũ uẩn được tập khởi.

12. Lão tử: Thân ngũ uẩn là do duyên hợp như huyễn và vì vậy theo định lý vô thường thân ngũ uẩn tập khởi thì chắc chắn dẫn đến già chết tàn lụn. Từ đó kéo theo sầu bi khổ ưu não v..v…

C. Kết luận: 
Giáo lý Thập Nhị Nhân Duyên là hệ thống giáo lý Trung Thừa Phật Giáo. Đối tượng nghe và thực hành chính là con người. Chư Phật mười phương ba đời thành tựu đạo quả đều dựa trên nền tảng thực tính Duyên khởi. Do đó, hành giả thực tập quán chiếu trên hai phương thức lưu chuyển là cách quán chiếu theo chiều thuận, nghĩa là cái này sinh nên cái kia sinh. Vì vô minh sanh khởi nên hành khởi.,v..v… Cách quán thứ hai là hoàn diệt nghĩa là theo cách đình chỉ và diệt tận, nghĩa là do cái này diệt nên cái kia diệt. Do vô minh diệt nên hành diệt.,v..v…Hành giả nào thực tập quán chiếu đầy đủ cả hai mặt về lý Duyên khởi thì người đó có thể thấy Phật, có thể nhận ra Pháp thân Phật. Và ngay lý Duyên khởi hành giả có thể nhận chân Khổ, Tập, Diệt, Đạo một cách dễ dàng. Với giáo lý Duyên khởi đối với vô tình thế gian là pháp tánh và đối với hữu tình thì Duyên khởi là Phật tánh. Dù loài vô tình hay hữu tình đối với nguyên lý Duyên khởi đều là tính thường trú, siêu việt. Pháp Duyên khởi là giáo lý chủ yếu của Phật giáo vì nó bao hàm các pháp ấn vô thường, khổ, không và vô ngã. Nguyên lý Duyên khởi vốn không tự tánh nên nó vô ngã. Do vô ngã nên không có một hữu ngã nào gọi là bất biến và vĩnh cửu nên con người có thể chuyển đổi từ nghiệp xấu xa đến nghiệp thiện lành, và chuyển hóa từ bạt địa phàm phu đến quả vị giác ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.